Ðã mười mấy năm trôi qua rồi mà mỗi lần nhớ lại cái ngày khủng khiếp ấy Lâm vẫn không khỏi rùng mình, nổi da gà. Chẳng bao giờ Lâm nghĩ còn sống được tới hôm nay, có lẽ do phước đức ông bà để lại. Cái ngày khủng khiếp đó diễn ra sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trong một trận đánh ở mặt trận Long Khánh, Lâm bị thương nặng và được chuyển về Bệnh viện Cộng Hòa cấp cứu. Sau những ngày mê man Lâm hồi tỉnh mới biết mình bị cụt hai chân trên quá đầu gối và cánh tay phải. Và khi gỡ băng ở mặt ra Lâm biết thêm mình bị hư một con mắt. Viên đạn pháo của địch đã rớt trúng hố cá nhân của Lâm, anh bất tỉnh từ giờ phút đó. Sau này Lâm được một bạn đồng đội kể lại là khi vết thương làm độc, anh mới được chuyển tới Bệnh viện Cộng Hòa.
Rồi ngày 30 tháng Tư ập xuống Thành phố Saigon, Lâm chỉ được biết tin tức một cách lơ mơ. Mặc dù vết thương chưa lành vẫn còn băng bó nhưng buổi chiều ngày hôm đó, Lâm còn nhớ như in, người ta vào Bệnh viện xua đuổi anh và các thương bệnh binh khác phải rời khỏi nơi này ngay để họ lấy chỗ chữa trị cho các đồng chí của họ. Thế là tất cả thương bệnh binh Miền Nam Việt Nam dắt díu nhau rời Bệnh viện. Lâm rời Bệnh viện, cũng như mọi người, với bộ đồ bệnh nhân và chân tay còn băng bó. Một anh bạn hạ sĩ quan may mắn chỉ cụt một cánh tay đã cõng Lâm ra khỏi cổng bệnh viện. Ngoài đường người người nhớn nhác qua lại với tất cả sự hoảng hốt sợ hãi. Một người trông thấy Lâm ngồi bệt bên lề đường, nói to: “Không chạy mau đi còn định ngồi đó ăn vạ sao! Chúng nó giết chết cả lũ bây giờ”. Anh bạn thương binh cõng Lâm, đang ngồi bên cạnh thở mệt, nghe vậy vội vàng đứng lên, nói với Lâm: “Thôi cậu ráng lết đi, tớ phải chuồn đây, hết sức rồi”. Dứt lời anh ta tất tả bước lẫn vào đám đông. Còn lại mình Lâm, anh đưa bàn tay còn lại che mặt khóc rưng rức. Lần đầu tiên trong đời anh cảm thấy bơ vơ trơ trọi, đơn độc tận cùng. Từ ngày ra trận mạc với bao gian nan nguy khốn anh vẫn coi thường, nhưng lần này bỗng nhiên anh thấy sợ và bật khóc. Biết về đâu bây giờ? Quê anh tận Miền Trung xa lắc. Trừ bà mẹ già ra anh không còn một người thân. Anh có một cô bạn gái nhưng hai người chưa hề có lời cam kết sống đời. Nhất là sau trận đại hồng thủy này chắc gì cô còn sống? Mà nếu cô còn sống chắc gì đã có cơ hội gặp lại nhau. Và nếu có may mắn gặp lại nhau chăng nữa chắc gì cô đã nhận ra anh và chấp thuận những rủi ro mất mát anh đang có? Lâm bây giờ mới thấm thía câu “tứ cố vô thân”. Không nhà cửa, không gia đình, không người thân, nhất là không một đồng bạc trong túi, Lâm biết đi về đâu, biết làm gì để sống trong khi thương tật trên thân thể anh vẫn chưa lành lặn, vẫn nhức nhối vô cùng vì sự vận động và xúc động quá mức. Lâm trong lúc suy nghĩ bi quan dẫn đến tuyệt vọng, anh thấy chỉ còn có con đường duy nhất giải thoát sự sống là lao mình vào những xe quân sự của bộ đội cộng sản di chuyển trên đường. Tiếng động cơ rầm rầm khiến Lâm có cảm tưởng như tiếng gầm gừ của con thú dữ đang há miệng nhe nanh sắp sửa ăn thịt mình. Phải chết thôi. Chết để trọn vẹn với cuộc đời người chiến sĩ bại trận: chết bởi quân thù. Nước mắt nơi con mắt độc nhất của Lâm lại tuôn ra. Tại sao mình không chết luôn ngoài mặt trận để khỏi phải nhận lãnh cái nhục bại trận thảm hại này? Giữa lúc Lâm cố lết cái tấm thân tàn tật ra khỏi lề đường thì có một cánh tay níu anh lại. Một giọng nói của người đàn bà nổi lên: “Ô hay, muốn chết hay sao mà bò ra lòng đường đầy xe cộ!”. Lâm quay nhìn lại phía tiếng nói. Ðó là một bà già gầy gò, áo quần rách rưới. Lâm nói như trong mê sảng không suy nghĩ: “Phải, tôi muốn chết”. “Ðừng có tính bậy nào. Có phải thương binh quân ta không? Vừa bị chúng nó đuổi ra khỏi nhà thương Cộng hòa à?”. Dứt lời bà già dồn tất cả sức lực kéo Lâm vào trong lề đường. Bà hỏi: “Nhà ở đâu?”. Lâm không trả lời chỉ lắc đầu. “Thế còn vợ con?”. Lâm vẫn lắc đầu. Bà già thở dài: “Thế là vô gia cư rồi. Có phải vì vậy mà anh định tự tử?”. Lâm vẫn lắc đầu nhưng khóe mắt anh nước mắt lại trào ra. “Bây giờ về nhà tôi ở tạm ít ngày chịu không?”. Không đợi Lâm chịu hay không, bà già ngoắc một chiếc xích lô đạp chở Lâm đi.
Mười mấy năm trời trôi qua mà Lâm vẫn tưởng như mới xẩy ra ngày hôm qua. Và anh vẫn nhớ như in từng sự việc. Căn nhà của bà già, đúng hơn là một túp lều nhỏ, bốn phía được quây bởi mấy tấm ni lông và mái lợp bằng lá dừa khô. Căn lều nằm trong góc sâu của một nghĩa điạ, hình như một nghĩa địa bị bỏ hoang từ lâu. Mấy ngày sau Lâm biết trong nghĩa địa này có nhiều gia đình những người ăn xin. Chính bà già ân nhân của Lâm cũng hành nghề này. Bà sáng sớm đã ra khỏi “nhà”, tới trưa mới về đưa thức ăn cho Lâm xong lại đi. Phần ăn là một tổng hợp pha trộn đủ thứ thuộc loại cơm thừa canh cặn như: cơm, canh, thịt, cá, xương, rau, đậu…Ðây là đồ ăn thừa của khách ở các cửa hàng ăn uống. Lần đầu ăn Lâm thấy rờn rợn ghê ghê, nhưng rồi quen dần và Lâm lại thấy ngon miệng. Chính những thức ăn ‘ăn xin’ này đã nuôi dưỡng Lâm, làm cho thương tật của anh mau chóng lành lặn, sức khỏe mau chóng hồi phục vì cơ thể được cung cấp đầy đủ chất bổ.
Một hôm bà già ôm về một đứa bé còn đỏ hỏn. Lâm ngạc nhiên. Bà già nói: “Má thấy nó la khóc nơi thùng rác nên bồng về đây. Kiến với ruồi bu đầy mình nó. Nếu má không thấy thì chỉ vài giờ nữa thằng bé toi mạng”. Bắt đầu từ đó Lâm có bổn phận trông nom chăm sóc đứa bé. Anh đặt tên nó là Nguyễn Thua. Nguyễn là họ của Lâm. Ðương nhiên thằng bé trở thành con nuôi của Lâm.
Ngày tháng trôi mau. Khu nghĩa địa ngày càng đông người các nơi đổ tới định cư và biến thành một khu gia cư ồn ào náo nhiệt. Những ngôi mộ được xây cất có mái đúc giờ trở thành tổ ấm của những cặp vợ chồng ăn xin trẻ. Ðó là những “căn nhà” của những kẻ chiếm ngụ từ đầu. Còn đa số “nhà” được cất trên khoảng đất chật hẹp giữa hai ngôi mộ. Một nửa dân số trong khu gia cư này thuộc thành phần ăn xin. Số còn lại thì đi làm những công việc nặng nhọc ở các xí nghiệp thủ công nhỏ của tư nhân hoặc quét dọn hốt rác tại các chợ, hoặc trộm cắp cướp giật. Khi trời sắp tối người ta mới về và sự ồn ào náo nhiệt nổi lên từ đây cho tới tận khuya. Người ta nhậu nhẹt, người ta chửi nhau rồi đánh lộn. Thằng bé Nguyễn Thua lớn lên trong môi trường đó. Sáu tuổi nó đã là một đứa trẻ khỏe mạnh và lanh lợi. Nó được cho biết bà già ăn xin là bà ngoại và bố là Nguyễn Lâm, mẹ nó bị chết vì bệnh ngay sau khi sinh nó. Nó càng lớn càng thương yêu “bố Lâm” và bà ngoại. Hàng ngày nó được bố Lâm dạy đọc và viết chữ quốc ngữ.
Sau khi thân thể quen với sự tàn tật và cuộc sống mới ổn định, Lâm cố dò la tin tức mẹ mình nhưng vẫn biệt tăm. Anh cho rằng mẹ mình nếu không chết về bom đạn cũng bị chết đói rồi. Trong lúc cuộc sống đang im lìm phẳng lặng trôi thì bà mẹ nuôi của Lâm mắc bạo bệnh qua đời. Bà thường ao ước, mong muốn khi chết được chôn trong áo quan. Bà có dành dụm một số tiền nhỏ không đủ trang trải việc chôn cất. May nhờ bà con sống trong khu nghĩa địa xúm lại giúp đỡ. Xác bà được bao bọc kín bởi những tấm ni lông và ngoài cùng bó chiếu. Phải đợi tới tối khuya người ta mới lén lút đào phần trên của một ngôi mộ đất rồi đặt xác bà già vào đấy vùi đất lại. Lâm và thằng Thua ngày ngày quanh quẩn bên ngôi mộ bà già khóc lóc thảm thiết. Bà chết đi để lại cuộc sống vất vả khốn khó cho hai bố con Lâm. Cuộc đời hai người từ đây rẽ vào một khúc ngoặt mới: phải tự lực mưu sinh. Lâm nhờ người đóng giúp một tấm ván khoảng mét vuông có bốn bánh xe nhỏ. Hàng ngày thằng Thua kéo tấm ván có Lâm ngồi trên tới các ngả tư đường đông người qua lại để hành nghề ăn xin.
&
Nhiều đêm khuya trằn trọc không ngủ được Lâm nhớ tới những ngày tháng xưa cũ, thời gian anh sống với các bạn bè đồng ngũ. Anh nhớ nhiều tới lão trung sĩ trung đội phó, tuy hay hách sì sằng và nổi nóng chửi thề với anh em nhưng rất tốt bụng. Lâm mới đầu rất ghét lão nhưng một lần trong trận đánh, một anh tân binh bị trọng thương, lão đã vác trên vai người bạn đồng ngũ trẻ này chạy phăng phăng giữa lằn đạn địch. Khi tới chỗ an toàn thì người lính trẻ tắt thở. Lão trung sĩ đã ôm thây người lính trẻ khóc nức nở như chính con lão chết. Rồi thằng Tư móm, một cây hề của trung đội. Thằng này không bao giờ biết buồn là gì. Hôm được tin mẹ nó chết, nó vẫn nói năng khôi hài khi mọi người đến chia buồn với nó. Nhưng Lâm đã bất chợt bắt gặp nó ôm mặt khóc khi tưởng không có ai gần bên. Và còn biết bao bạn hữu đồng ngũ thân thiết nữa. Bây giờ không biết bọn họ ở đâu, sống hay chết. Lâm cầu nguyện cho họ không gặp phải những nỗi đoạn trường như mình. Chiến tranh đã phá hoại thân thể và đời sống anh, anh không oán trách và chấp nhận thân phận kẻ thua trận phải chịu cảnh đọa đầy nhục nhã. Nhưng trong anh vẫn còn lẩn quẩn một nỗi niềm, một uẩn khúc gì đó mà anh chưa gọi tên nó ra được. Anh đã bị các cấp chỉ huy, các bạn đồng đội và tất cả chiến hữu trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa bỏ quên? Anh phải gánh chịu nhục nhã cho tất cả những người thua trận? Anh nghe tin tức thấy nói những quân nhân may mắn chạy thoát khỏi bàn tay trừng trị của kẻ thù giờ đây đang lập nghiệp nơi nước ngoài có một đời sống no đủ, sung sướng. Và họ cũng không quên những chiến hữu trong nước. Họ đã tổ chức lạc quyên nhiều lần gửi tiền về cứu giúp, nhất là trong dịp Tết nhất. Nhưng riêng bản thân Lâm cho tới nay vẫn chưa nhận được một đồng nào. Có lẽ họ tưởng anh chết hoặc không biết địa chỉ. Ở khu đất này chỉ có địa chỉ người chết chứ làm gì có địa chỉ người sống!
Cuộc đời Lâm cứ thế sống trong sự tàn phế tối tăm nhục nhã, không một chút hy vọng, không một chút đợi chờ vào ngày mai. Ðời sống ngày càng khó khăn đến nỗi nghề ăn xin cũng phải dùng tất cả mánh lới thủ đoạn mới đánh động được lòng người. Nhiều buổi hai cha con Lâm xin không đủ tiền ăn tối, phải uống nước lã cầm hơi. Lâm chịu đựng được nhưng còn thằng Thua, nó đang tuổi ăn tuổi lớn. Nó nhịn đói một bữa đã xanh mặt muốn té sỉu. Cả bầu trời u ám đen sì đang phủ xuống cuộc sống hai cha con Nguyễn Lâm. Nhiều đêm Lâm nằm mơ thấy mình nhận được tiền bạn bè đồng ngũ từ ngoại quốc gửi về, không nhiều nhưng cũng đủ để hai cha con Lâm sống cầm hơi một thời gian. Ít ra thì hai người khỏi phải hành cái nghề đốn mạt nhất xã hội này. Có được số vốn dù là nhỏ, Lâm sẽ cho thằng Thua đi bán vé số. Nhưng giấc mơ vẫn là giấc mơ. Sáng ra mở mắt thấy đời vẫn tối tăm mù mịt. Một hôm Lâm bị sốt phải nằm nhà để thằng Thua đi xin ăn một mình. Tối về, vừa thấy Lâm nó đã kêu lên: “Thua rồi Bố ơi! Cả ngày nay chẳng có ma nào bố thí một đồng!”. Lâm vuốt tóc thằng Thua an ủi: “Không sao con, ngày mai nhất định sẽ khá! Các bạn đồng ngũ của Bố ở ngoại quốc sẽ gửi tiền về. Con sẽ thoát khỏi cảnh ăn mày ăn xin này. Con sẽ đi bán vé số. Con sẽ có một cuộc sống ổn định có nhân cách”.
Nhưng rồi nhiều năm tháng trôi qua bố con Lâm cứ sống trong mỏi mòn chờ đợi, tuyệt vọng. Anh đã nhờ người viết thư cho các Báo, các tổ chức từ thiện, các hội đoàn ái hữu binh chủng ở nước ngoài, nhất là ở Mỹ…
&
Chiều Ba mươi Tết, Lâm nằm sốt rên rỉ. Thằng Thua “đi làm” (dân ăn xin trong khu này gọi đi ăn xin là đi làm cho nó sang) từ sáng tới giờ vẫn chưa thấy về. Ngoài cơn sốt lại còn thêm cơn đói hành hạ. Các nhà hàng xóm lăng xăng sửa soạn Tết. Có nhà còn giết cả gà luộc và mùi cơm nếp bốc ra thơm lừng. Lâm kéo chiếc mền rách che kín mặt để khỏi phải ngửi thấy những cái mùi hấp dẫn ấy. Anh đang lo lắng thấp thỏm chờ đợi thằng Thua về thì có tiếng người léo nhéo: “Ðấy, đúng chỗ ấy đấy! Bác Lâm ơi có khách Việt kiều tới thăm!”. Khách Việt kiều tới thăm! Một sự việc mà Lâm mong ước, mòn mỏi chờ đợi từng ngày bấy lâu nay! Lâm tung chăn ngồi dậy. Khách là một người đàn bà xa lạ. Lâm trố mắt nhìn. “Ông có phải là Nguyễn Lâm trước ở binh chủng B.?”. Người đàn bà hỏi, dọng nói nhỏ nhẹ lịch sự. “Vâng, đúng là tôi”. Nhìn thân thể đại tàn phế của Lâm khách sững sờ xúc động. Bà quay mặt đi lấy khăn giấy lau vội mấy giọt nước mắt. Thấy khách lạ Việt kiều sang trọng quá bộ tới xóm nhà mả này, một số người hiếu kỳ xúm lại coi và xì xào bàn tán. “Ông có thể cho tôi biết số quân?”. Lâm đọc ngay số quân và số đơn vị của mình. “Ông còn nhớ trung sĩ La không?”, khách hỏi. Lâm kêu lên: “Ô, lão trung sĩ trung đội phó hách sì sằng, hơi một chút là la lối om sòm! Tôi làm sao quên lão được!”. Khách cười: “Tôi là vợ của lão trung sĩ ấy đây!”. Lâm trố mắt nhìn khách chột dạ: “Tôi xin lỗi. Tuy ông ấy rất khó tính nhưng anh em trong trung đội đều quý mến ông ấy”. Người đàn bà hạ dọng nói nhỏ cho Lâm đủ nghe: “Hôm nay tôi đem số tiền quyên góp của anh em ở nước ngoài về tặng ông”. Hai tai Lâm ù lên và đầu óc chuếnh choáng. Anh muốn nghe người khách nhắc lại lần nữa để biết chắc là mình không nghe lầm. Khách ngại ngùng đưa mắt nhìn những người đang đứng vây quanh. Lâm biết ý nói to: “Ðây là người bà con của tôi ở Mỹ về thăm tôi. Mong bà con cô bác giải tán để chúng tôi được tự nhiên chuyện trò”. Khi mọi người bỏ đi hết, khách lạ mở bóp lấy mấy tờ giấy bạc đô la trao cho Lâm. Hai tay Lâm run lên khi nhận tiền. “Có thư của các bạn ông gửi ông đây. Chẳng bao giờ họ quên ông đâu, chỉ vì không có địa chỉ của ông nên sự cứu trợ hôm nay mới tới. Mong ông đừng buồn phiền oán trách là anh em họ vui rồi. Thôi giờ tôi xin phép. Ít ngày nữa tôi sẽ trở lại thăm ông và nhận thư ông gửi cho bạn bè, nhất là cho ông trung sĩ hách sì sằng thường nhắc tới ông luôn”. Khách vừa đi khỏi thì thằng Thua về. Mặt nó dài ra méo sệch: “Vẫn thua to Bố ơi. Thiên hạ mải lo sắm Tết quên chuyện bố thí. Thế là Tết này bố con mình đành…”. Thằng Thua chưa nói hết câu Lâm đã cất tiếng cười lớn – tiếng cười mà thằng Thua mới nghe thấy lần đầu ở Bố mình. “Bố con mình phen này đổi đời rồi con ạ. Con nghe xem có phải gió mùa Xuân đang tới không?”. Trong lúc thằng Thua còn ngơ ngác không hiểu Bố nó nói gì thì Lâm đưa cánh tay độc nhất còn lại ôm nó vào lòng ghì chặt và nói tiếp qua hai hàng nước mắt rưng rưng: “Gió mùa Xuân bên kia bờ đại dương đã thổi tới nhà bố con mình mang theo tình người đầy ắp. Nhất định ngày mai mùng Một Tết sẽ là ngày mở đầu cho những tháng năm tốt đẹp. Thế mà bao năm qua Bố cứ tưởng…”