NỬA HỒN XUÂN LỘC-THÁI LUÂN-NGUYỄN PHÚC SÔNG HƯƠNG (Tôn Thất Tuệ giới thiệu)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

http://everhartfamily.com/Vietnam/Vietnam3/CatholicMission3.jpg

1970 đâu đó ở Xuân Lộc.

 

 Em ơi Xuân Lộc, em Xuân Lộc

                   Xích sắt nghiến qua những xác người.

Cặp thất ngôn nầy là nhát chém quyết định, 

là thanh kiếm giữ kín, giờ cuối mới dùng, 

nghiến qua thần thức của người đọc. 

Thái Luân NPSH vô cùng “độc ác”  như xích sắt 

nghiến qua những xác người.




tôn thất tuệ giới thiệu

Nửa Hồn Xuân Lộc

 Thái Luân Nguyễn Phúc Sông Hương 

Khi xuân Tân Mão 2011 còn nóng hổi mới ra lò, tôi viết một lời bàn ngắn về cái video có Khánh Ly hát tặng lãnh sự CSVN tại San Francisco. Theo tôi việc nầy đã manh nha từ ngàn xưa, ngày xưa thì đúng hơn vì cô Mai (hổn danh Mai Đen) đã tham dự nhiều buổi sinh hoạt tại Đà Lạt trước những biến động đấu tranh miền Trung; trong dịp nầy Linh Mục Nguyễn Ngọc Lan đã minh thị nói VN chỉ có một con đường là đi theo MTGPMN tuy ông không chịu nói đã nhiều lần vô bưng. Ở đoạn nầy tôi viện dẫn hồi ký của Nguyễn Đắc Xuân, ông viết thêm rằng các người tham dự đã đọc và bình luận thơ của Thái Luân. Ngoài LM Lan còn có nhiều nhân vật trí vận và có Trịnh Công Sơn. Sau đó TCS cho ra những bản nhạc phản chiến mạnh mẽ, tăng cường bởi tiếng hát Khánh Ly đến tầm mức công phá.

Nguyễn Đắc Xuân không nói nội dung các bài thơ của Thái Luân. Tôi còn nghi vấn phải chăng Thái Luân có mặt. Sau khi tra cứu và hỏi các nhân vật sống, thì được biết Thái Luân không có mặt ở Đà Lạt bao giờ, đồng  thời “mất tích” trên địa bàn sinh hoạt ở Huế. Nhưng không khí, như mô tả qua ngòi bút của NĐX, đã gây ý nghĩ không tốt cho Thái Luân.

Thái Luân trong quá khứ đã gây cho vợ chồng tôi một ấn tượng khó tả khi chúng tôi đến thăm Phạm Duy vào lúc nhạc sĩ nầy vừa hoàn tất phổ nhạc Bi Hài Kịch thơ của Thái Luân. PD chỉ nói tác giả là một sĩ quan QLVNCH ngành tâm lý chiến ở Huế. Bi Hài Kịch là bi hài kịch thực sự của chúng ta, khi hai bên tương tranh chém giết nhau chỉ như công cụ của đạo diễn. Diễn viên ôm súng bắn, diễn viên gục đầu đường, diễn viên đang tra tấn, diễn viên chịu cực hình, tất cả xẩy ra trên quê hương, mà quê hương là ba má, quê hương là khoai sắn, là con thơ.

Tôi tin NĐX đã chuyển tập thơ cho PD vì PD đã phổ mấy bài của NĐX trong Tâm Ca. PD nói ông đang phổ bài thứ hai thuật lại lời nói của một một kỹ nữ với học sinh Đồng Khánh: em đừng cười chị, để chị diễn lại trò móc túi để cho thằng lính Mỹ thỏa mãn thú con heo, nếu không chúng sẽ đè em ra mà làm. Vợ chồng tôi thấy khó chịu vì nó hoàn toàn khác với tính cách cao thượng và nghệ thuật của Bi Hài Kịch và tôi mất cảm tình với Thái Luân. Tâm cảm nầy tôi vẫn còn giữ khi viết về các buổi họp tại ĐaLạt như trên.

Sau khi viết xong lời ghi vội, tôi gặp bài Nửa Hồn Xuân Lộc dưới tên Nguyễn Phúc Sông Hương. Tôi chưa nhất thiết đã kéo Thái Luân vào một chiều hướng nào nhưng tôi thấy sự thiết tha của TL là chân thành. Tôi tìm hiểu thêm. PD hay thay đổi lời thơ của kẻ khác theo ý mình, thêm nhân vật tên Duyên vào thơ Nguyễn Tất Nhiên; chỉ dùng ý thơ từ một bài rất dài của Phạm Thiên Thư thành bài Lên Non Tìm Động Hoa Vàng. Ông cũng đã phổ bài Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm theo một lối khác với nguyên bản. Việc nầy không tác hại quyết liệt, hơn nữa ông phải uyển chuyển lời cho ăn khớp với nhạc. Nhưng lời diễn dịch của PD trong trường hợp nầy đã quá xa với một đoạn ngắn Thái Luân viết như sau:

           Xin cám ơn những cô gái bán bar nhỏ con

           Đã gồng mình chịu đựng

          Vì cuộc sống

          Của các cô

          Và của Việt Nam.

          Thưa thầy giáo, thưa công chức:

          Xin đừng vênh vênh cái mặt đạo đức

          Chửi người ta

          Con gái Huế bây giờ đi bán bar!

Không biết PD có hoàn tất dự án Phẫn Nộ Ca hay không, ngoại trừ  Bi Hài Kịch xuất hiện trên nguyệt san của Thích Đức Nhuận.

Đoạn thơ ngắn trên đây đã đảo ngược cái nhìn của tôi về Thái Luân, cho nên tôi đã chuyển bài Nửa Hồn Xuân Lộc cho nhiều thân hữu.

Một người bạn ở bên Đức đọc và nói với tôi rằng ông nổi da gà và thích cái hào hùng chân thành của Nguyễn Phúc Sông Hương tức Thái Luân; một nhà văn ở đường Thượng Tứ nói sẽ học thuộc bài thơ.

Thái Luân lúc còn là thiếu úy ở Huế đã ấn hành Vùng Tủi Nhục gồm 25 bài thơ trong đó có bài Bi Hài Kịch  Cảm Ơn Bar nói trên. Ông bị phạt 40 ngày trọng cấm và ba tháng tù, rồi đi lính tiếp; và chức vụ cuối cùng là thiếu tá tiểu đoàn trưởng, Quân Đoàn 3, – ở trong cuộc – chứng kiến sự thất thủ Xuân Lộc vào những giờ cuối.

Bài thơ mà tôi hân hạnh chép bên dưới được trích từ web Đặc Trưng đăng giữa năm 2001, gồm phần thứ nhất và phần kế tiếp xem như một điệp khúc, in khác màu.

Thật ra tôi có biết Thái Luân xuất bản một cuốn sách và được một ông tiến sĩ giới thiệu theo một lối mà tôi nghĩ nói loanh quanh và – vì chính trị – không cho thấy một NPSH với những sôi động tâm tư vào những ngày cuối của VNCH. Tôi không có cơ hội mua cuốn Tháng Tư Lính Không Cần Hớt Tóc. Khi sửa lỗi đánh máy bài giới thiệu cũ nầy, tôi cố tìm thêm hiểu thêm về NPSH và gặp một bài trên vietbao.com, giới thiệu cuốn sách một cách rất nhát gừng và đăng bài Nửa Hồn Xuân Lộc một nửa tương đương với phần thứ nhất in màu xanh bên dưới.

Ngắn dài không phải là điều đáng nói. Điều đáng nói là có quá nhiều thay đổi mà theo cảm quan riêng không nên có. Trừ ra một điểm, là hai câu cuối cùng rất mới mà tôi nghĩ Đặc Trưng ghi thiếu vì đoạn cuối chỉ có hai câu, tôi xin ghi vào phần in bên dưới.

          Em ơi Xuân Lộc, em Xuân Lộc
          Xích sắt nghiến qua những xác người!


Những thay đổi khác làm cho bài thơ xưa mất nhiều hào hùng.


Vỗ về nón sắt
 trở thành ném bi đông đế (cười khinh bạc). Ném bi đông rượu vẫn còn nóng nãy không khinh đời như thượng sĩ già, vỗ về nón sắt như cổ bồn cùng Trang Tử mà hát khúc bi ca. Rồi đến (mới):

Mây xa quen kiếp đời phiêu bạt,
Bỏ núi ra đi cũng ngậm ngùi,
Huống chi bóng với hình tha thiết;
Hình nghiêng chao đổ, bóng chơi vơi!


Hai câu cuối, ngoài tính chất ước lệ, không ăn nhập vào đâu. Xin lấy hai câu cũ trở lại thì có chỗ mà so sánh (cũ):

Mây xa dù quen đời chia biệt
Ngoảnh mặt ra đi cũng ngậm ngùi.
Rút quân, bỏ lại hồn ta đó
Bảo Chánh, Gia Rai lửa ngút trời!

Thêm một dẫn chứng;


Vì bí mật quân, ta đành phụ
Mối tình Long Khánh tội người ơi
Mất thêm Xuân Lộc tay càng ngắn,
Núm ruột miền Trung càng xa vời.

mới:

Bí mật lui quân nên đành phụ
Mối tình Long Khánh, tội người ơi!
Cao nguyên bài học đầy xương máu;
Một bước chân đi một xác người!

Mất thêm Xuân Lộc tay càng ngắn, núm ruột miền Trung càng xa vời.; hai câu nầy cho thấy tầm nhìn rộng rãi của tác giả về chiến lược, Xuân Lộc và miền Trung tuy xa cách giao thông đều là hai phần đất của Cao Nguyên, mất Xuân Lộc thì miền trung chỉ là một chân của chiếc ghế gãy, mất Xuân Lộc là mất yết hầu, mất con đê chận nước lũ từ cao nguyên Boloven ngập lút Saigon. Tuy vậy, cũng như miền Trung, Xuân Lộc trong ngôn ngữ bình thường và ngay trong sách giáo khoa địa dư không được xem là Cao nguyên như Kontum, Pleiku, Darlac. Quân đoàn 2, với bộ tư lệnh trên cao, lại gồm thêm mấy tỉnh duyên hải.

Cao nguyên bài học đầy xương máu, Một bước chân đi một xác người! Có thế ý niệm Cao nguyên đi quá nhanh từ Xuân Lộc, dựa trên chiến lực và địa dư như vừa nói. Nhưng hai chữ “cao nguyên” chia trí người đọc. Ngoài ra, hai câu nầy đánh mất giá trị hai câu cuối của cả bài, âm vọng mất đi vì tội lập lại

                   Em ơi Xuân Lộc, em Xuân Lộc

                   Xích sắt nghiến qua những xác người.

Cặp thất ngôn nầy là nhát chém quyết định, là thanh kiếm giữ kín, giờ cuối mới dùng, nghiến qua thần thức của người đọc. Thái Luân NPSH vô cùng “độc ác” như xích sắt nghiến qua những xác người.

Khi đối chiếu lần nầy, tôi thấy bài thơ đăng trên vietbao.com đã bỏ điệp khúc để kết chung thành một bài. Bài mới có những đoạn ước lệ và ủy mỵ, hoặc chỗ cũ sửa lại chải chuốc mỹ miều văn tự, bỏ đi những đoạn nghe rợn gáy ví như:

Bao năm ta trọn tình đất đỏ,
Một phút này thôi thẹn với đời
Sốt rét đêm run, ngày không ngã
Bao lần máu đổ dửng dưng cười.
Một phút này thôi, hừ lại ngã,
Bỏ thành, bỏ đất nhục nào vơi.

Thân ta là ngựa sao không hí
Cho nỗi đau lan rộng đất trời.

Hồn ta là kiếm sao không chém
Rạp ngã rừng xanh, bạt núi đồi.

Ta đi, áo nhuộm màu đất đỏ
Cao su vướng tóc mãi thơm mùi,
Tiếc quá nắng vàng phơi áo trận,
Vườn nhà em chuối chín vàng tươi.

Tôi thật phân vân, đêm qua ngủ không yên. Người viết bài báo sửa lại theo ý mình thì chán quá. Việc sửa bài của người khác xẩy ra luôn. Ngay cả Truyện Kiều mà còn bị viết lại một cách ngu xuẩn. Văn chương bây giờ thật không có gì “quí hơn độc lập tự do”. Người thân trong gia đình tôi tự nhiên được cho là nhà thơ Đỗ Hữu; một cô gái vô danh lấy chồng Huế, có tên là Huyền Chi thì được cho là tác giả của Thuyền Viễn Xứ  thay vì Hà Huyền Chi. Tất cả chữ “vô” đều sửa là “vào” như “vào lý” cho “vô lý”; gọi “một chai bia” được sửa thành “một cái bia”.

Riêng việc sửa bài nầy, nó không có gì tệ hại đến như thế. Chỉ mất đi cái hào hùng, dĩ nhiên dưới cái nhìn chủ quan của riêng tôi.

Nhưng nếu chính do NPSH viết lại của mình thì sự thể sẽ khác đi. Theo hộ luật, chứng từ mới như di chúc, ủy quyền v.v… hủy bỏ cái cũ. Vậy thì tôi đã vi phạm khi in phần chính và điệp khúc dưới tên NPSH.

[Ở một chuyện khác. Theo yêu cầu, tôi đã chỉ một website cho một thân hữu Quốc Học hiện ở Saigon để đọc một hồi ký về Huế. Chàng cựu sinh viên sư phạm ấy đã tuyệt vọng bởi một chuyện không đáng chi, nếu nó nằm ngoài lãnh vực văn chương học thuật. Chàng gặp một cuốn sách bán xôn, ¼ giá ghi; chính là cuốn sách trên web nay in ở VN. Mua về đọc thì thấy nó bị sửa banh, không còn chi chữ nghĩa, thơ ngây và hào hùng, hào hoa như đọc trên ảo. Về sau nữa, có người yêu cầu chỉ cái web, tôi từ chối, nại rằng ấn bản ra sau đã phủ nhận ấn bản cũ.Tôi phải đóng ngoặc thật kín đoạn nầy vì sợ hiểu nhầm dùng nó để phê bình ấn bản thứ hai nếu của chính Thái Luân].

Tôi có làm vài bài văn vần nên không dám nói chi vì sợ bị cho là đố kỵ, thợ thơ bao giờ cũng ganh với thi sĩ (versificateur contre poète). Cho nên tôi chỉ muốn đóng vai người thưởng ngoạn. Vẫn giữ những câu thơ cũ của Thái Luân NPSH trên dòng thời gian.

Mà thời gian – tôi mới học của nhà báo Ý Tiziano Terzani – như một dòng sông. Tương lai còn xa trên thượng nguồn chưa có nhưng đã có, rồi chảy vào hiện tại để thành quá khứ ở hạ lưu, đã có và tiếp tục có, chưa nói tiếp chuyện bốc hơi, thành mây thành mưa. Cứ thế mà đọc chơi. Hơn nữa, những kiệt tác – một Nửa Hồn Xuân Lộc của NPSH, một Tây Tiến của Quang Dũng, một Sầu Ai Lao của Đỗ Hữu….. phóng lên cao, tự tại nhi nhiên như trăng sáng làm của chung, nhưng mỗi người tiếp nhận với cảm quan riêng. Thật vậy, Cao Bá Quát không do dự phát biểu:

          Duy giang thượng chi thanh phong

          Dữ giang sơn chi minh nguyệt

          Kho trời chung mà vô tận của mình riêng.

Bài viết đã xưa nay đem ra cập nhật 

với lời cầu chúc an vui cho mọi người, 

cầu mong có thái luân trường cửu như tên Thái Luân; 

nhịp nhàng của triệu chòm thiên thể, 

nhịp nhàng của loài ong trong tổ mật, 

nhịp nhàng trong ý nguyện tình đời, 

đừng làm như tôi,

chảy nước mắt thầm chỉ đủ ướt mi mỗi khi đọc

Nửa Hồn Xuân Lộc.

Cẩn bút từ thung lũng Subligna, Georgia.—

 

Nửa Hồn Xuân Lộc

Nguyễn Phúc Sông Hương

Nếu được như bố già thượng sĩ
Nghe tin lui quân chỉ nhìn trời,
Vỗ về nón sắt, cười khinh bạc,
Chắc hẳn lòng ta cũng thảnh thơi.

Còn ta nhận lệnh rời Xuân Lộc
Lại muốn tìm em nói ít lời,
Nhưng sợ áo mình đầy khói súng
Cay nồng mắt người gục trên vai.

Vì chắc ôm nhau em sẽ khóc,
Khóc theo, vợ lính cả trăm người!
Em biết dù tim ta sắt đá
Cũng vỡ theo ngàn giọt lệ rơi.

Mây xa dù quen đời chia biệt
Ngoảnh mặt ra đi cũng ngậm ngùi.
Rút quân, bỏ lại hồn ta đó
Bảo Chánh, Gia Rai lửa ngút trời!

Bí mật lui quân mà đành phụ
Mối tình Long Khánh tội người ơi.
Mất thêm Xuân Lộc tay càng ngắn
Núm ruột miền Trung càng xa vời. 

Sáng mai thức dậy, em buồn lắm
Sẽ khóc trách ta nỡ phụ người.
Lòng ta như trái sầu riêng rụng
Trong vườn em đó vỡ làm đôi!

Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết
Như một vành tang bịt đất trời!
Chân theo quân rút, hồn ta ở
Sông nước La Ngà pha máu sôi;

Thương chiếc cầu tre chờ thác lũ
Cuốn qua Xuân Lộc khóc cùng người
Ta đi, áo nhuộm màu đất đỏ
Cao su vướng tóc mãi thơm mùi,

Tiếc quá nắng vàng phơi áo trận,
Vườn nhà em chuối chín vàng tươi.
Ta nhớ người bên đàn thỏ trắng,
Cho bầy gà nắm lúa đang phơi,

Chôm chôm hai gốc đong đưa võng,
Ru nắng mùa xuân đẹp nụ cười…
Nếu được đưa quân lên Định Quán
Cuối cùng một trận cũng là vui

Núi Chứa Chan kia sừng sững đứng
Sư đoàn 18 sao quân lui?
Thân ta là ngựa sao không hí
Cho nỗi đau lan rộng đất trời.

Hồn ta là kiếm sao không chém
Rạp ngã rừng xanh, bạt núi đồi.
Hỡi ơi! chân bước qua Bình Giã
Cẩm Mỹ nhà ai khói, ngậm ngùi!

Lửa cháy, cả lòng ta lửa cháy
Xóm làng Gia Kiệm nhớ khôn nguôi.
Đêm nay Xuân Lộc, đoàn quân rút
Đành biệt nhau, xin tạ lỗi người.

Chao ơi tiếng tắc kè thê thiết
Kêu giữa đêm dài sợ lẻ loi,
Chân bước, nửa hồn chinh chiến giục
Nửa hồn Xuân Lộc gọi quay lui.

Ta biết dưới hầm em đang khóc
Thét gầm pháo địch dập không thôi

Em ơi Xuân Lộc, em Xuân Lộc

Xích sắt nghiến qua những xác người.

———————

Buổi chiều nhận lệnh rời Xuân Lộc

Ta muốn tìm em nói ít lời,
Nhưng sợ em buồn, không nói được
Nên đành lặng lẽ mà đi thôi!

Ngại phút rời xa em sẽ khóc,
Bao người vợ lính sẽ buồn theo
Yếu đuối tim ta người chiến sĩ
Loạn rừng, tội nghiệp tiếng chim kêu.

Rút quân bỏ lại đời ta đó,
Bảo Chánh, Gia Rai lửa ngút trời,
Lửa ngút, trái tim ta lửa ngút,
Trái tim người lính mới yêu người.

Vì bí mật quân, ta đành phụ
Mối tình Long Khánh tội người ơi
Mất thêm Xuân Lộc tay càng ngắn,
Núm ruột miền Trung càng xa vời.

Sáng mai chắc chắn em buồn lắm
Sẽ trách sao ta lại phụ người.
Lòng ta như trái sầu riêng rụng
Trong vườn em đó vỡ làm đôi

Cao nguyên bài học đầy cay đắng
Lớp lớp người rơi, lớp lớp rơi …
Ta chẳng muốn làm người bại trận
Thành người tình phụ đó em ơi.

Ðêm nay quân rút hồn ta ở
Nhìn nước La Ngà pha máu sôi,
Thương chiếc cầu chờ cơn thác lũ
Tràn qua Xuân Lộc cuốn theo người.

Ta đi áo nhuộm màu đất đỏ
Cao su vướng tóc mãi thơm mùi,
Tội nghiệp nắng vàng chờ áo trận
Khi tàn chinh chiến sẽ đem phơi.

Em hỡi, em thương đàn thỏ trắng,
Bầy gà mất mẹ sống mồ côi
Em hỡi em thương người lính trận
Người lính đêm nay phụ bạc rồi.

Bao năm ta trọn tình đất đỏ,
Một phút này thôi thẹn với đời
Sốt rét đêm run, ngày không ngã
Bao lần máu đổ dửng dưng cười.
Một phút này thôi, hừ lại ngã,
Bỏ thành, bỏ đất nhục nào vơi.

Nếu được đưa quân lên Ðịnh Quán,
Cuối cùng một trận cũng là vui.
Sáng mai chân bước qua Bình Giã,
Cẩm Mỹ nhìn lui luống ngậm ngùi!

Lửa cháy, cả lòng ta lửa cháy,
Một trời Gia Kiệm nhớ khôn nguôi.
Muôn năm em hỡi trời xuân Lộc
Giữ nửa hồn ta mãi với người.

Giữ nửa hồn ta bên chiếc võng
Dưới giàn thiên lý bóng trăng soi .. .
Ðêm nay quân rút sầu riêng rụng
Trong vườn em và trong tim tôi!

Tôi sợ một ngày mai bại trận
Ðể em côi cút lại trên đời.
Nếu phải một ngày mai bại trận
Ðêm nay sao ta lại bỏ người!

Em hỡi, dưới hầm ai đang khóc,
Thét gào pháo địch mãi không thôi.
Xuân Lộc trời ơi Xuân Lộc cháy
Ai gọi tôi về trời Gia Rai!! 

 

trích từ vietbao

Nửa hồn Xuân Lộc

Nếu được như bố già thượng sĩ
Nghe tin lui quân, ngước nhìn trời,
Ném bi đông đế, cười khinh bạc
Chắc hẳn lòng ta cũng thảnh thơi.

Còn ta nhận lệnh rời Xuân Lộc,
Lại muốn tìm em nói ít lời,
Nhưng sợ áo mình đầy khói súng
Cay nồng đôi mắt gục trên vai,

Giây phút cầm tay em sẽ khóc,
Khóc theo, vợ lính biết bao người,
Ta biết dù tim mình sắt đá
Cũng vỡ theo ngàn giọt lệ rơi.

Mây xa quen kiếp đời phiêu bạt,
Bỏ núi ra đi cũng ngậm ngùi,
Huống chi bóng với hình tha thiết;
Hình nghiêng chao đổ, bóng chơi vơi!

Bí mật lui quân nên đành phụ
Mối tình Long Khánh, tội người ơi!
Cao nguyên bài học đầy xương máu;
Một bước chân đi một xác người!
Sáng mai thức dậy em buồn lắm
Sẽ khóc trách ta nỡ phụ rồi.
Lòng ta như trái sầu riêng rụng
Trong vườn em đó vỡ làm đôi.

Bao nhiêu gai nhọn sầu riêng đó,
Ta sẽ quỳ lên chịu suốt đời!
Nếu thật lui quân là bại trận
Thì ta nhất quyết chẳng xa người.

Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết;
Một mãnh khăn tang khóc giống nòi!
Chân theo quân bước hồn ta ở
Sông nước La Ngà  pha máu sôi.

Trách mình quên rót ly từ giả
Những hồn anh kiệt đã nằm nơi…
Ôi cuộc giao tranh buồn bã quá,
Hạ bao nhiêu địch vẫn không cười.

Nếu được tràn quân lên Định Quán,
Đánh vùi một trận để đời vui.
Núi Chứa Chan kia sừng sừng đứng
Sư đoàn 18 sao quân lui”

Ngựa lồng bãi chiến mà không hí,
Phải chăng ngựa chiến đã tàn hơi”
Tay vung kiếm bén mà không chém.,
Phải chăng kiếm chủ chẳng còn người”

Không! không! ta hiểu lòng ta lắm
Sông núi bao ngày đã tả tơi!
Người lính miền Nam đi chiến trận
Luôn khắc trong tim nghĩa giống nòi.

Bước chân lững thững vào Quân sử,
Nghe trống trận xưa giục liên hồi!
Đây giáo Chi Lăng, gươm Vạn Kiếp,
Tiếng hò đuổi giặc dậy ngàn nơi.

Đạp chốt nghe đau lòng tĩnh lộ,
Nhìn lui, lữa đỏ nhuộm góc trời,
Cao su trùng điệp rừng che mộ,
Thị trấn hoang tàn, pháo địch rơi…

Em ơi Xuân Lộc, ơi Xuân Lộc,
Người lính hôm qua tạ lỗi Người.
Chao ơi tiếng tắc kè thê thiết
Gọi giữa đêm dài sợ lẻ loi.
Chân bước nửa hồn chinh chiến giục,
Nửa hồn Xuân Lộc gọi quay lui!
Dưới hầm, ta biết em đang khóc,
Thét, gầm…pháo địch dập không thôi!
Em ơi Xuân Lộc, em Xuân Lộc
Xích sắt nghiến qua những xác người!

vietbao.com/a129001/tho-30-thang-tu-1975-