Lịch Sử
Thập Niên 1960
Dana Ulery |
Đầu tiên, phụ nữ chỉ làm những công việc hỗ trợ như quản trị viên, thư ký, bác sĩ, nhà tâm lý học và sau đó là kỹ sư. Vào những năm của thập niên 1960, NASA bắt đầu tuyển dụng phụ nữ và người thiểu số cho chương trình không gian. Đến cuối thập niên 1960, NASA đã tuyển dụng hàng nghìn phụ nữ. Một số phụ nữ như Mary Shep Burton, Gloria B. Martinez (người phụ nữ gốc Latin đầu tiên được tuyển dụng), Cathy Osgood và Shirley Hunt làm việc với văn phòng điện toán (computer division) trong khi Sue Erwin, Lois Ransdell và Maureen Bowen làm thư ký cho các thành viên khác nhau của Đội Nhiệm vụ và Kiểm soát Chuyến bay (Mission and Flight Control teams). Dana Ulery là nữ kỹ sư đầu tiên được tuyển dụng tại Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực (JPL) của NASA. Mặc dù bà chỉ được coi là một kỹ sư hạng thấp, nhưng trong hơn bảy năm, không có thêm một nữ kỹ sư nào khác được nhận vào JPL. Một phụ nữ khác, Donna Shirley, làm việc tại JPL với tư cách là mission engineer vào những năm 1960. Ngoài ra, Tiến sĩ Carolyn Huntoon, một phụ nữ, là người tiên phong trong việc nghiên cứu quá trình biến dẫn (metabolism) của phi hành gia và các hệ thống khác của cơ thể. Margaret Hamilton là lập trình viên chính (lead programmer) của máy tính (computer) hướng dẫn cho chương trình Apollo. Judy Sullivan là kỹ sư trưởng về sinh học (lead biomedical engineer) cho trình Apollo 11.
Margaret Hamilton với những computer programs do bà các nhân viên phụ tá viết để điều khiển chương trình Apollo |
Mặc dù phụ nữ gặp khó khăn trong việc thành lập vị trí của họ trong cơ quan làm việc, nhưng NASA đã có một số phụ nữ lập nên những thành tích đáng kể trong địa bàn của nam giới. Ví dụ, Katherine Johnson là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử của NASA. Là một phụ nữ da đen, bà đã trải qua nhiều cấp bậc, và sau cùng đã trở thành một trong những kỹ sư hàng đầu và được kính trọng nhất trong trình Apollo. Đây được coi là một bước quan trọng đối với người da đen và phụ nữ trong NASA và công chúng nói chung để những người khác ngưỡng mộ. Cùng với Katherine Johnson, người đã đóng vai trò then chốt với biệt danh là người máy tính (human computer) của NASA, Dorothy Vaughan và Mary Jackson đã giúp tính toán các phương trình tích phân và phép tính toán để kiểm tra lại và đảm bảo rằng việc phóng tàu vũ trụ đã được tính toán chính xác. Nhìn chung, đây là những người đi tiên phong cho việc ngày càng gia tăng số phụ nữ làm việc cho NASA.
Sally Ride, nữ phi hành gia đầu tiên của Mỹ |
Vào ngày 18 tháng 6 năm 1983, Sally Ride đã làm nên lịch sử với tư cách là nữ phi hành gia người Mỹ đầu tiên bay vào vũ trụ. Khoảng hơn một năm sau, Judith Resnik đưa tàu con thoi Discovery vào không gian và trở thành người phụ nữ Mỹ thứ hai bay vào vũ trụ. Năm 1988, Ellen Ochoa gia nhập NASA và trở thành nữ phi hành gia gốc Latin đầu tiên. Ochoa đã thực hiện nhiều nhiệm vụ bao gồm tàu con thoi Discovery, Atlantis, bốn chuyến bay và gần 1,000 giờ trong không gian. Năm 1985, Shannon Lucid thực hiện chuyến bay đầu tiên và khi kết thúc sự nghiệp, bà đã trải qua 188 ngày trong không gian. Lucid lập kỷ lục người Mỹ, cho cả nam và nữ, với số ngày ở trong không gian nhiều nhất cho đến năm 2002
McAuliffe và Morgan trong chương trình thầy cô trên không gian |
Cùng năm đó, Barbara Morgan trở thành giáo viên đầu tiên trong không gian; tuy nhiên, có ý kiến cho rằng Christa McAuliffe được công bố vào năm 1985 với tư cách là giáo viên đầu tiên trong không gian, và Barbara Morgan chỉ là ứng cử viên thay thế hoặc phụ. Năm 1986, Christa McAuliffe qua đời trong vụ tai nạn Challenger và Morgan mãi đến năm 2007 mới có thể bay lên vũ trụ, sau khi các chương trình không gian được khởi động trở lại.
Chương Trình Phụ Nữ Trong Không Gian
Một số thành viên của FLAT (Fellow Lady Astronaut Trainees) |
Chương trình Phụ Nữ Trong Không Gian (20 tháng 12 năm 1959) là phiên bản “hồi sinh” của chương trình Women in Space Earlyest đã bị hủy bỏ vào tháng 11 năm 1959. Tương tự như chương trình dành cho nam giới, chương trình này đòi hỏi tất cả ứng viên phải trải qua các cuộc thử nghiệm để đánh giá. Tuy nhiên, các điều kiện xét nghiệm này rất đa dạng để phù hợp với phụ nữ. Ví dụ, trong giai đoạn sàng lọc, những người đàn ông được yêu cầu phải có bằng phi công phản lực, đã học trường phi công thử nghiệm quân sự và có kinh nghiệm bay tối thiểu 1,500 giờ. Vì phụ nữ bị tước mất một số cơ hội này nên việc sàng lọc chuyển sang phụ nữ có bằng phi công thương mại, đặc biệt là phụ nữ làm huấn luyện viên trong thời gian này. Cobb, người đã trải qua cuộc thử nghiệm đầu tiên, trở thành đứng đầu của FLAT (Fellow Lady Astronaut Trainees) cùng với 12 phụ nữ khác, tổng cộng có 13 phụ nữ (do đó, giới truyền thông đặt tên cho họ là Mercury 13). Mặc dù Cobb được chỉ định làm cố vấn của NASA và tiếp tục thực hiện các cuộc thử nghiệm, phụ nữ vẫn không được đào tạo để trở thành phi hành gia.
Ngày Nay Ở NASA
Những Phụ Nữ Hiện Đang Ở Trong Các Chương Trình Của NASA
Joan Elizabeth Higginbotham (sanh ngày 3 tháng 8 năm 1964) là kỹ sư điện và là cựu nữ phi hành gia của NASA. Bà đã tham dự chuyến bay trên phi thuyền con thoi Discovery trong chuyến STS-116 với tư cách là một chuyên viên và là người phụ nữ Mỹ da đen thứ ba được đưa lên không gian, sau Mae Jemison và Stephanie Wilson.