Viết về người nhạc sĩ khả kính Nguyễn Văn Đông, quả thật tôi không đủ khả năng để nói được hết những tinh hoa trong nghệ thuật âm nhạc mà ông đã mang đến cho đời, tất cả những gì hay và đẹp nhất đã được nhà thơ Du Tử Lê viết lại một cách rất trân trọng và chi tiết, bao gồm :Tiểu sử, thân phận, cũng như những nhận định về hình ảnh người lính trong nhạc Nguyễn Văn Đông. Xin được khép lại những tinh hoa của một nhà thơ nói về người nhạc sĩ khả kính, bởi chính ông đã « hữu xạ tự nhiên hương », sự chuyển tải đôi khi vụng về của tôi sẽ trở nên thừa nếu không muốn nói là….dở. Trong bài viết này, tôi chỉ muốn hoài niệm lại một quãng đời tôi đã đi qua, trong đó có hình ảnh của người Bố đã một thời khoác áo chinh y, ngoài những ca khúc tiền chiến bất hủ, Bố là người đã đưa tôi đến gần với nhạc Nguyễn Văn Đông, để từ đó âm nhạc Nguyễn Văn Đông đã sống cùng tôi trong suốt cuộc chiến dài và cho đến mãi tận hôm nay.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông. Ông sinh ra vừa kịp lớn để bước theo tiếng gọi núi sông, tôi sinh ra để kịp nghe tiếng tầm bay của đạn pháo.Hai mảnh đời nhưng cùng một thân phận, thân phận của những con người sinh trong thời ly loạn, để cùng gặm nhấm chung những nỗi đau mất mát của chiến tranh, ông bước vào đời bằng lý tưởng của người trai vì sông núi, tôi bước vào đời bằng giấc mơ đoàn viên bên cạnh bếp lửa hồng.Và chính nơi này tôi đã gặp ông trong cái duyên âm nhạc….
Mỗi lần được tin Bố sắp về phép, lòng tôi nôn nao thấp thỏm đứng ngồi không yên, trường học tôi nằm ngay trên con đường đi ra cổng làng, rất thuận tiện cho việc đi đón Bố sau khi tan học, ngày ấy còn bé quá , tôi không có khái niệm về thời gian, nhiều hôm về đến nhà bị ăn đòn vì cái tội học xong không về thẳng nhà mà còn đi lêu lỏng, những lần như thế bịnh lì bẩm sinh lại tái phát, mình tôi lầm lũi đi ra chiếc cầu nằm cạnh nhà bắc ra sông, ngồi thả chân đánh đu cùng sóng nước, mắt nhìn về một cõi xa xăm tìm Bố để than van kể lể về nỗi lòng « Oan Thị Kính », biển là người bạn duy nhất đã cất giữ dùm tôi những giọt nước mắt của nhớ thương, hình ảnh Bố với gương mặt thoáng buồn cùng đôi mắt trĩu nặng trong bộ quân phục bên cạnh cây súng và chiếc nón sắt đang nhìn tôi như muốn nói điều gì…
– Bố ơi, con nhớ Bố lắm..
Tôi quay về mang theo chút tia hy vọng, mong ngày mau qua cho đêm xuống, để khi thức giấc tôi lại có thêm một ngày chờ đợi và đón Bố khi bóng người còn đang ở rất xa…
– Sao con không ở nhà, ra ngoài trời nắng chang chang thế này
Và câu nói muôn đời bất di bất dịch của tôi
– Sao Bố đi lâu thế
Những ngày phép qua đi thật ngắn ngủi, nhìn cách chuẩn bị của Mẹ cho tôi biết …ngày mai này Bố lại ra đi….. Tôi lầm lũi trở nên ít nói, với lên vách tường lấy xuống cây đàn Mandolin trao vào tay Bố…
– Bố đàn và hát cho con nghe nhé
Cầm cây đàn trên tay sửa lại cho đúng nốt, giọng Bố trầm buồn….
Chiều mưa biên giới anh đi về đâu
Sao còn đứng ngóng nơi Giang đầu
Kìa rừng chiều âm u rét mướt
Chờ người về vui trong giá buốt
Người về bơ vơ …..
Người đi khu chiến thương người hậu phương
Thương màu áo gửi ra sa trường
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
Thì đường trần mưa bay gió cuốn
Còn nhiều anh ơi !
Tiếng đàn khi trầm lúc bổng réo rắt như những nhịp bước quân hành.Hình ảnh những người lính hiên ngang nối đuôi nhau đi trong mưa bão lúc ẩn lúc hiện, trước mặt là núi rừng trùng trùng điệp điệp, văng vẳng bên tai tôi, tiếng quân hành lướt đi ngoài sương gió, tôi nhìn theo bóng dáng người lính cuối cùng đã khuất dần dưới cơn mưa bão, lòng chợt bồi hồi « Chiều mưa biên giới anh đi về đâu »…..Bản nhạc đã dứt, tâm hồn tôi còn mãi tận nơi đâu…..Giọng Bố đánh thức tôi trở về với thực tại và chỉ còn kịp nghe ….
– Chiều Mưa Biên Giới của Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đó con gái.
Kể từ đó… « Em chưa biết yêu đã biết sầu »… Âm nhạc Nguyễn Văn Đông đã đi bên cạnh tôi như một người tình trong suốt cuộc chiến, xoa dịu trong tôi những nhớ thương về người Bố ngoài chiến trường, đang ngày đêm miệt mài ôm tay súng gìn giữ sơn hà cho tôi có được những giấc ngủ bình an.
Những cánh phượng rời xa cuống đi tìm giấc ngủ vùi trong cơn mưa thu, một vài tiếng ve sầu đang cố cất lên những cung bậc thê thiết sau cùng để lìa xa nhân thế, xa xa vọng về những âm thanh của sự chết, máu quyện cùng đất chan hòa cùng nước mắt của người thiếu phụ, người lính vẫn miệt mài tay súng, vẫn tình thu thắm thiết, và vẫn nhớ muôn vàn đến một « Sắc Hoa Màu Nhớ »
Hoa phượng rơi đón mùa thu tới
Màu lưu luyến nhớ quá thu ơi
Ngàn phượng rơi bay vương tóc tôi
Sắc tươi màu phố vui
Tiễn em chiều năm ấy….
Đời tôi quân nhân, chút tình duyên gửi núi sông
Yêu mầu gợi niềm thủy chung
Nhưng rồi vẫn nhớ,một trời vẫn nhớ đời đời
Phượng rơi rơi trong lòng tôi….
Người lính vẫn hiên ngang bước đi trong oan nghiệt của đất trời, mưa…mưa da diết, mưa như vuốt mặt, mưa như cài thêm nỗi nhớ để bước chân anh không biết mỏi, dù gian khổ, dù hiểm nguy , hay dù tóc anh có tơi bời lộng gió bốn phương, nhưng chân anh chưa mỏi, chí anh chưa sờn… chuyện mưa nắng bụi đường có xá gì với đời trai đã nguyện hiến dâng mình cho đất nước. Người lính Nguyễn Văn Đông cũng như bao chàng trai cùng trang lứa, đã bước theo tiếng gọi của tiền nhân băng mình trong lửa đạn, đêm nằm gối súng trông ánh sao trời nghe tim mình thèm khát một chút tình đơn sơ, ươm những giấc mơ cho ngập tràn nỗi nhớ, để khi tìm về bên người yêu, dư vị thuốc súng vẫn phảng phất vương trên màu áo trận, xóa tan đi những giọt tủi hờn. Hạnh phúc lại một lần nữa được khai sinh trên nỗi nhớ, dù có mong manh tựa sợi tơ trời, thì hạnh phúc ấy cũng đủ gía trị để ta nâng niu trọn một kiếp người.
Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng
Ngoài mưa khuya lê thê, qua ngàn chốn sơn khê
Non nước ơi, hồn thiêng của núi sông
Kết trong lòng thế hệ, nghìn sau nối nghìn xưa…
Anh như ngàn gió, ham ngược xui, theo đường mây
Tóc tơi bời lộng gió bốn phương
Nước non còn đó một tấc lòng
Không mờ xóa cùng năm tháng
Mấy ai ra đi hẹn…về dệt nốt tơ duyên…
Dù chưa một lần được làm người yêu của lính trong thời chiến, nhưng trong tôi đã có đủ những cảm nhận phút giây giã biệt, nỗi quyến luyến trước phút chia tay khi Bố trở lại chiến trường vẫn in hằn trong trái tim, những giọt nước mắt trong cái ôm siết chặt rớt trên vai Bố đã nuôi tôi khôn lớn từng ngày, để từ đó tôi biết yêu và quý trọng hơn những gì đang hiện hữu. Lời giã biệt…như nói lên một sự hứa hẹn nhưng không phải là tuyệt vọng, dù có làm tan nát lòng kẻ ở người đi, thì đó cũng chính là chất xúc tác để ta không phải hoài một đời, sống trọn vẹn một lần trong “ thú đau thương ”.
Thôi nhé về đi em buồn chi
Lưu luyến càng thêm đau người đi
Một trời binh lửa nhuốm tang thương
Người đi chốn sa trường
Hàn gắn tình mến thương…
Nơi ấy dù bôn ba đời lính
Anh vẫn còn yêu thuở học sinh
Trời chiều biên giới hết mưa bay
Người đi chóng quay về
Em gắng chờ đợi nhau.
Từng đàn bướm đang lượn quanh muôn hoa, đám cỏ non đang nô đùa trước gió, từng cụm mây trắng như bóng giai nhân nằm khoe mình dưới bầu trời xanh vắt. Xuân đã về…
Dù ai buôn bán nơi đâu
Nhớ đến ngày tết rủ nhau mà về
Chiến tranh dù có tàn ác cách mấy, cũng chẳng ai nỡ gieo tang tóc trong những ngày xuân, thế nhưng… mùa xuân năm một ngàn chín trăm sáu mươi tám. (1968) Mùa xuân của điêu linh,của tang tóc, của máu và nưóc mắt trộn lẫn xác người cùng xác pháo đẫm ướt trên khắp quê hương miền Nam. Người người khóc, nhà nhà khóc, tiếng pháo giao thừa đã phải chào thua những tiếng nấc uất nghẹn, những ánh mắt hờn căm,những kêu gào tuyệt vọng. Làm sao nói cho hết sự tàn bạo của cái chủ thuyết vô thần, luân lý và đạo đức không giá trị bằng những ly rượu máu chảy từ người dân được nâng lên chúc mừng cho loại chiến thắng lừa bịp, hung tàn. Thương cho thân phận những người lính miền Nam phải đón giao thừa trong một phiên gác xuân, nghe tiếng súng mà ngỡ rằng tiếng pháo, ngồi trong chòi mà ngỡ mái nhà tranh, hình ảnh đó đã đủ nói lên hết cái tinh thần trách nhiệm của người trai thời loạn. Một lần nữa xin được tri ân các Anh, những người còn sống hôm nay và những người đã ngủ sâu trong lòng đất Mẹ.
Đón giao thừa một phiên gác đêm
Chào xuân đến súng xa vang rền
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
Ngỡ rằng pháo tung bay, ngờ đâu hoa lá rơi…
Chốn biên thùy này xuân tới chi
Tình lính chiến khác chi bao người
Nếu xuân về tang thương khắp lối
Thương này khó cho vơi,thì đừng đến xuân ơi.
Nếu như định mệnh có dành sẵn cho người lính một kết thúc oan nghiệt, thì con dân miền Nam cũng phải gánh chịu những đọa đày sau ngày tàn của cuộc chiến. Tất cả những gì người lính làm đã vượt lên số phận, họ không là một tín đồ ngoan của thuyết “định mệnh”, nhưng than ôi, số phận như một tiền định mà con người không thể chống lại. Đã bao lần tôi khóc cho Anh và khóc cho dân tộc này. Ngày Anh bước vào trò chơi mãn tính của loài thú, là ngày con dân miền Nam sống nô lệ khổ sai trên chính quê hương mình, bóng tối và sự chết luôn rình rập đe dọa trên nỗi sợ của con người, làm sao không biết sợ khi đứng trước loài cầm thú chỉ biết phục tùng cho bản năng. Và tôi rời quê hương mang theo bên mình nỗi buồn viễn xứ, Anh ở lại gậm nhấm nỗi nhục của người ngã ngựa.
Trong những năm đầu sống vật vờ làm trăng viễn khách, hồn tôi xuôi ngược chẳng biết về đâu…Những chiều mưa biên giới, những sắc hoa màu nhớ, những phiên gác đêm xuân… Tất cả đã mờ dần, trong tôi giờ chỉ có sàigon ơi vĩnh biệt, người di tản buồn, ai trở về xứ Việt, hay một chút quà cho quê hương… Tôi đã quên ông, quên người nhạc sĩ đã nuôi lớn trái tim tôi, con dân miền Nam cũng thôi nhớ về ông, những khuôn mẫu suy tư độc đoán đã dìm chết cả một dân tộc đắm chìm trong “chủ nghĩa tuân thủ” những tiếng hát vô hồn như những thây ma cùng bước lên “chủ nghĩa đại đồng”, và tất cả cùng ngã gục xuống tận đáy điêu linh của “ thời bao cấp”.
Mười năm của tủi nhục đã bào mòn thân xác, ông trở về mang theo một túi hành trang trống rỗng, chứa đựng sự rách nát toàn diện của tâm hồn. “Ông bước đi …không thấy phố…không thấy nhà…chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ ”. Đây…đây mới đích thực là nỗi đau tận cùng của những giọt lệ khô đã làm trơ đi hốc mắt. Xa lạ lắm phải không ông? Nếu không còn nước mắt để khóc thì cười đi ông nhé, cười cho thật man dại, để khi tiếng cười ngưng bặt, trong sự tĩnh lặng ông sẽ nghe rõ hơn tiếng thét gào từ đáy vực tâm hồn. Là một người mang ơn ông , hãy để tôi khóc thay ông, khóc cho cái gía mà ông đã trả cho tình yêu đất nước và niềm đam mê sáng tác, để tôi có được thừa hưởng chân giá trị mà ông đã để lại cho đời.Lần trở về tìm lại cảnh cũ người xưa, trong nỗi xót xa bồi hồi xúc cảm, ông chỉ kịp nhìn những điêu tàn đổ nát, nhưng không kịp đuổi bắt quá khứ chưa một lần vấy đục sông mê…
Về đây ngơ ngác, chim bay tìm đàn
Về đây hoang vắng, lạnh buốt cung đàn
Tôi lắng nghe tâm tình nhân thế
Qua đáy tim chưa đục sông mê
Qua ước mơ duyên tình đơn sơ…..
Nơi xưa quê nghèo, nhà tranh nát tiêu điều
Tình xưa khôn hàn gắn
Người đã đi rồi, người về đâu có hay
Đâu vòng tay đắm say …..
Nói đến âm nhạc Nguyễn Văn Đông, nếu như không nhắc đến “ Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp” thì quả là một thiếu sót rất lớn. Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp như một tiêu biểu cho sự chọn lựa lý tưởng của người trai thời loạn, bao gồm cả ý thức hệ. Sự dung hòa giữa tình nhà nợ nước, đã không làm mất đi cái giá trị nhân bản của một con người bình thường trong “ hàng hàng lớp lớp” của ông. Có lẽ đó cũng là một nét riêng, một đặc điểm để trở thành một biểu tượng trong lòng những người lính khi đến với âm nhạc Nguyễn Văn Đông.
Còn đây giây phút này
Còn nghe tiếng hát, nụ cười xinh tươi
Còn trong ánh mắt, còn cầm tay nhau
Ngày mai xa cách nhau
Một người gối chiếc cô phòng
Còn người góc núi ven rừng, chân mây đầu gió
Hỡi người anh thương, chứa trọn thề ước
Nhưng tình đất nước ôi lớn lao
Không đành lòng dệt mối thắm riêng tư
Phương trời anh đi, xa xôi vạn lý
Đêm nằm gối súng trông ánh trăng
Cho người này gợi nhớ thương người kia …..
Và xin em hiểu rằng
Người đi giúp nước nào màng danh chi
Cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy
Đời dâng cho núi sông
Lòng này thách với tang bồng
Đừng sầu má ấy phai hồng, buồn lắm em ơi.
Thời gian tựa bóng câu qua mành, mới đó mà đã hơn ba mươi sáu năm, kể từ ngày quê hương đắm chìm trong biển lửa. Theo làn sóng tị nạn cộng sản, tôi cũng như những người con dân Việt, đành đứt ruột lià xa những người thân yêu, lìa xa Tổ Quốc sống những tháng ngày lưu vong nơi đất lạ quê người, hình ảnh hoảng loạn không định hướng của những ngày đầu, lại một lần nữa trở về hiện diện trong ký ức tôi…! Mọi người đang đón mừng giáng sinh trong an bình hạnh phúc, con dân Việt chúng tôi đón mừng giáng sinh trong nước mắt tủi nhục của một thân phận lưu đày, tất cả cùng khóc, ôm nhau khóc, tức tửi khóc, khóc cho Tổ Quốc, cho Cha Mẹ, cho anh chị em , cho vợ, cho chồng, cho các con, và sau cùng là giọt nước mắt dành cho chính mình. Trải qua biết bao thăng trầm, con dân Việt lưu lạc mới có được sự bình ổn trong đời sống, cuộc chạy đua để được sớm hội nhập với một nền văn hóa mới, tôi đã bị thua cuộc so với những bạn bè cùng trang lứa, trong lúc nhiều bạn bè chạy theo nền âm nhạc đang rất thịnh hành của thập niên tám mươi, thì tôi cặm cụi như một bà già tìm kiếm lại những âm thanh ngày cũ, khóa chặt hồn mình trong một ốc đảo cùng với những tình khúc của một thời binh lửa, gặm nhấm những cảm xúc đau thương nghe trái tim dằn vặt để cùng đau với sự nổi trôi của vận nước. Mang ơn ông đã thắm nhuần trong tôi những ca từ của chiều mưa biên giới, của khúc tình ca hàng hàng lớp lớp, để tôi không phải đi khập khễnh trên chính đôi chân mình, và nhờ thế tôi nhận thêm ra những chân giá trị của ông. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là một người có óc sáng tạo trong cải cách âm nhạc, dựa trên căn bản cái mình đã có làm nền tảng cho sự cái cách, chẳng bởi vì “ Tân” mà phải mất đi cái “ Cổ ”. Vì thế, trên nền trời âm nhạc của Việt Nam đã xuất hiện thêm một thể nhạc mới được gọi là “ Tân Cổ Giao Duyên”, xuất thân từ miền bắc, nhưng tôi cũng rất mê cái thể loại nửa Tân nửa Cổ này. Theo nhà thơ Du Tử Lê, bài “ Tân cổ giao duyên” đầu tiên được sáng tác vào năm 1963, đó là bài “ Khi Đã Yêu”, và phải đợi tới sáng tác thứ hai “ Mùa Sao Sáng” thì phong trào “ Tân cổ giao duyên” mới thực sự rộ lên. Viết đến đây làm tôi lại nhớ đến Bố, điều làm tôi rất ngạc nhiên, Bố bị ảnh hưởng vào nền âm nhạc thời “ Tiền Chiến” rất sâu đậm, thế mà ông cũng rất mê thể loại “ Tân Cổ Giao Duyên” này mới chết tôi, cái chết ở đây là vì …Bố bắt tôi hát tân cổ cho Bố nghe, dù đang còn trong tuổi thắt bím nhai ô mai, vậy mà tư duy tôi đã hình thành cái mặc cảm rất dễ thương “ Bắc kỳ hát tân cổ sẽ lòi cọng rau muống”. Nhờ Bố mà tôi cảm nhận được cái đẹp cái hay qua sự sáng tạo của người nhạc sĩ, tôi ví “ Tân Cổ Giao Duyên” như sự kết hợp của nghĩa vợ chồng, như hình với bóng không thể tách rời.
Khi đã yêu thì mơ mộng nhiều
Mơ ngày mai pháo nhuộm đường vui
Mơ vành môi thơm ngát hương đời
Tình kia phong kín mây trời
Nhưng yêu riêng một người thôi….
Chớ nói tình yêu
Bằng chót lưỡi đầu môi
Bằng khóe mắt xa vời
Thì dẫu sau này nên câu luyến ái
Ân tình còn vương mãi mãi
Muôn đời trọn kiếp không phai….
Ngoài ra, với tôi âm nhạc và con người Nguyễn Văn Đông là cả một triết lý sống, ông là người biết giữ gìn cái giá trị của mình, không để biến chứng theo thời cuộc, biết tìm cho mình một hạnh phúc trong chữ “ Nhẫn ”, sự sắt son và tấm lòng thủy chung của ông đã phá tan mọi đam mê của quyền lực, của danh vọng. Hãy thử một lần kềm hãm sự thèm khát của bản năng, để thấy rõ hơn cái chân giá trị của lý trí. Là một người sống có lý tưởng, ông đã trọn lòng phục vụ cho đất nước, trọn lòng phục vụ đời sống tâm linh cho xã hội, đem niềm vui cho người làm hạnh phúc mình,vì thế tôi không ngạc nhiên khi nghe ông thở dài về ba mươi mấy năm hoang phế. Tôi nhìn ông ở khía cạnh đời sống tâm linh nhiều hơn những biệt tài mà ông đã mang đến cho đời.
Chiến tranh chấm dứt là điều mong muốn của tất cả con dân Việt, nhưng định mệnh đã an bài cho đất nước phải kết thúc trong sự đau đớn ê chề, đường ranh giới đã được lấp, nhưng lòng người vẫn vạn nẻo ly tan. “Hải Ngoại Thương Ca” như một sắp xếp của định mệnh, “sáng tác năm 1964” để sau bốn mươi bảy năm, “Đàn Chim Việt” vẫn ngậm ngùi trong cảnh ly hương, nhin về cố quận mà đau lòng con Cuốc Cuốc. “Tôi đi giữa trời bồi hồi, Cờ bay phấp phới quên chuyện ngày xưa” … đó là tâm tình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông dành cho những người bạn đang sống ly tán trong cuộc binh biến đảo chánh năm 1960, như một lời kêu gọi hãy quên đi oán thù và trở về cùng xây dựng lại Quê Hương. Điều đó đã nói lên tính chất nhân bản của người nhạc sĩ đối với tình bạn và nghĩa đồng bào. Ngày nay, những cánh chim viễn xứ vẫn đi giữa trời bồi hồi, Cờ bay phấp phới “mong ngày đoàn viên”. Làm sao có thể xóa tan được oán thù, khi quê hương ngày một hấp hối trước họa diệt vong, những trái tim xanh đã không còn chỗ đứng trong một xã hội mang đầy kịch tính, nước nát, nhà tan, cái ác vẫn hiên ngang tồn tại, sự nhẫn nhục đã vượt trên sức chịu đựng của con người, thì lòng thù hận không phải là một sự lựa chọn của những người con xa xứ, mà đó là lập trường kiên định để nuôi chí đấu tranh, dành lại quyền sống, quyền làm người cho thế hệ mai sau. “Hải Ngoại Thương Ca” với tôi là một sự chờ đợi hát cho ngày quật khởi, ngày Cờ Vàng phấp phới bay trên khắp ba miền đất nước để nghe tiếng hát sum vầy của Hội Trùng Dương. Xin Hồn Thiêng Sông Núi phù hộ cho con thuyền nước Nam được anh dũng oai hùng chen chân cùng thế giới…
Mặc thời gian tóc pha đôi màu
Mặc đại dương sóng to mưa gào
Đàn chim bé trong làn chớp xanh
Yêu trời tự do Á Đông
Thương về đồi núi xa xa.
Hạt sương Khuya – Paris 2012