TRÍ THỨC MIỀN NAM SAU NĂM 1975

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail
Trong bài có nhắc đến Giáo sư Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, là thầy dạy tôi.
    Thầy gốc Huế, từng là Hiệu trường Đại học Y Hà Nội trước năm 1954, rồi Hiệu trưởng Đại học Y Sài Gòn, Hiệu trưởng Trường Quân y VNCH.
 
    Thầy là một Phật tử ngoan đạo. Thời TT Diệm, khi vụ khủng hoàng Phật giáo xảy ra năm 1963, thầy cạo đầu để phản đối.

    Sau ngày 30-4-1975, Chu Phạm Ngọc Sơn là một nhà chuyên môn hợp tác toàn diện với chế độ. Ông và một số nhà khoa học khác, thường không
câu nệ khi nhận các đơn đặt hàng thực hiện những công trình “khoa học”
phục vụ nhu cầu chính trị. Theo Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước
Thành phố hcm Huỳnh Kim Báu: “Những năm ấy, các trí thức Sài
Gòn vẫn nhận được điện thoại từ Văn phòng Thành ủy hỏi xem: ‘Có công
trình khoa học chào mừng 3-2 hay 19-5 không?’. Những Giáo sư như Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Thới thì mắng ngay: ‘Không có thứ khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả’. Nhưng một số người khác thì có, người thì làm ra chất tẩy rửa ‘pentonic’, người chứng minh ‘ăn mấy ký khoai mì bổ
bằng một ký thịt bò’, người thì ‘ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo’. Nhưng ngay cả những ‘nỗ lực’ đó cũng không giúp kiến tạo được lòng tin”.

 
    Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nhìn vào lý lịch, thấy trước đây năm

nào tôi cũng đi Mỹ nghiên cứu hoặc đi dạy, người ta cứ thắc mắc sao đi
Mỹ quá trời. Tôi nộp đơn xin vô Hội Trí thức Yêu nước, mấy lần bị từ
chối”. Năm 1980, trong thời gian Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn đi Liên Xô, một người con của ông vượt biên không thành. Người con gái của ông
cũng cảm thấy bế tắc khi thi không đậu vào dự bị y khoa. Biết chuyện,
ông Võ Văn Kiệt thỉnh thoảng qua lại, trò chuyện, khi hiểu thêm nội
tình, ông nói với Giáo sư Sơn: “Thôi, anh cứ để cho cô ấy và mấy cháu
đi, đi chính thức. Bên đó có điều kiện cho các cháu học hành. Sau này
nếu các cháu trở về thì tốt, nếu không, tôi với anh cũng được làm tròn
bổn phận”.

Ông Huỳnh Kim Báu kể: Sau giải phóng, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn vào SàiGòn, sau khi nghe Mai Chí Thọ, Trần Trọng Tân báo cáo tình hình, ông
nói: “Nãy giờ có một chiến lợi phẩm rất lớn mà các đồng chí không đề
cập, đó là lực lượng trí thức được đào tạo từ nhiều nguồn. Lenin nói,
không có trí thức là không có xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, theo ông
Huỳnh Kim Báu, cách mà chính quyền sử dụng trí thức chủ yếu là “làm
kiểng”.

Giáo sư Phạm Hoàng Hộ tuy ở thời điểm đó vẫn còn là Hiệu phó Đại học Khoa học, nhưng theo ông Báu: “Đấy chỉ là một chức vụ bù nhìn, không có vai trò gì trong giáo dục”. Giáo sư Hộ là Hiệu phó nhưng không phải đảng viên, nên khi có vấn đề gì thì những người trong Đảng họp riêng, quyết định xong, có việc nói với ông, có việc ông không bao giờ được biết. Từ rất sớm, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã phản đối cách đào tạo đưa thời gian học chính trị quá nhiều vào chương trình. Ông cảnh báo: “Nếu chính trị can dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ mất căn bản”.

Giáo sư Phạm Hoàng Hộ nói lên điều này sau khi chính ông đã được trải
nghiệm trong những ngày học chính trị. Năm 1977, một lớp học kéo dài
mười tám tháng về “Chủ nghĩa xã hội khoa học” dành riêng cho các trí
thức miền Nam đã được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Võ Ba,
người tham gia tổ chức lớp học này, kể: “Chính quyền tưởng rằng sau
lớp học sẽ có được một tầng lớp trí thức của chế độ cũ yêu mến và
phụng sự chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nếu như Marxism đã từng được các
trí thức miền Nam quan tâm như là một môn khoa học, thì giờ đây họ lại
nghe những giảng sư miền Bắc nói về Marx hết sức giáo điều. Chưa kể,
những người đứng lớp còn rao giảng với tư thế của người chiến thắng,
tự tôn, tự đắc”. Những đảng viên tham gia lớp học như ông Võ Ba cũng
thừa nhận: “Trước giới trí thức Sài Gòn, chính quyền đã thất bại ngay
trong lần trình diễn đầu tiên”.

Chưa kết thúc lớp học, Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung, một giáo sư triết học
nổi tiếng của Sài Gòn, một người được coi là “hằn học với Giáo hội”,
đã coi cộng sản cũng là “một giáo hội”. Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung cho
rằng hình thức “kiểm điểm” mà cộng sản áp dụng trong sinh hoạt chính
là một thứ “xưng tội man rợ”. Về đường lối, ông cho rằng: “Có thể có
những điều Lenin nói đã đúng vào năm 1916, nhưng sau bảy mươi năm mà ta áp dụng là không lý trí”. Thậm chí, tại thời điểm kinh tế tan
hoang, Thành ủy đã họp khẩn vấn kế các trí thức, Ông Kiệt đã thực bụng
trải lòng: “Các Anh Chị suy nghĩ đề xuất giải pháp, nếu một năm nữa
tình hình không chuyển biến, các Anh Chị tùy ý ra đi hay ở lại”. Gs
Trung đã khẳng khái đáp: “Khi đó, nếu còn lòng tự trọng, các Anh nên
tự xử cho hợp lẽ, tại sao lại đặt vấn đề chúng tôi ra đi!?”. Ông Mai
Chí Thọ tím mặt. Đêm đó đòi bắt Gs Trung, nhưng Ông Kiệt “năn nỉ” bỏ
qua.

Còn Giáo sư Châu Tâm Luân thì khi nghe các giảng sư miền Bắc say sưa nói về con đường “tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát
triển chủ nghĩa tư bản” đã mỉa mai: “Sao không tìm hiểu xem sau chủ
nghĩa cộng sản là gì để nhân tiện bỏ qua, mình bỏ qua luôn hai, ba
bước”. Giáo sư Châu Tâm Luân lấy bằng tiến sỹ về kinh tế nông nghiệp ở
Đại học Illinois, Mỹ, năm hai mươi lăm tuổi, trở về dạy cùng lúc ở hai
trường đại học Minh Đức và Vạn Hạnh. Ông là một trong những trí thức
phản chiến hàng đầu, bị chế độ Sài Gòn bắt giam đầu năm 1975 cho tới
những ngày cuối tháng 4-1975 mới được Chính quyền Dương Văn Minh thả ra. Giáo sư Châu Tâm Luân là một thành viên của nhóm “sứ giả” được ông Dương Văn Minh phái vào trại Davis và được giữ lại ở đây cho đến trưa ngày 30-4-1975. Sau giải phóng, chính quyền xếp ông vào diện “người của ta”. Ông là đại biểu khóa I Hội đồng Nhân dân Thành phố hcm, đồng thời là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam.

Về phía mình, Giáo sư Châu Tâm Luân cũng là một trong những trí thức kỳ vọng nhiều vào chế độ mới. Mấy tháng “sau giải phóng”, giá cả sinh hoạt tăng vọt lên, trong khi dân tình lo âu thì ông lại cho là giá
tăng vì “tâm lý”, giống như cách giải thích thời ấy của chính quyền.
Sau khi cho rằng nhà nước không thể dùng ngoại tệ để nhập hàng như
trước đây, Giáo sư Châu Tâm Luân viết: “Giờ đây không còn bọn tay sai
đem máu của con em nhân dân đổi lấy đô la nữa thì cần phải tiết kiệm
tối đa số ngoại tệ mà dân phải lao động đổ mồ hôi mới đem về được cho
quốc gia… Vì vậy ngoài sự tiếp tay chánh quyền kiểm soát gian thương,
chúng ta cũng cần kềm hãm bớt kẻ địch ở ngay trong lòng mình…”

Khi trao cho Giáo sư Châu Tâm Luân nhiều trọng trách, Chính quyền nghĩ đơn giản ông là người “dùng” được. Nhưng, cũng như nhiều trí thức SàiGòn, ông đã không hành xử như là một công cụ. Từ năm 1976, Giáo sư
Châu Tâm Luân không được đứng lớp vì kiến thức kinh tế của ông là
“kinh tế tư bản”, tuy nhiên, ông vẫn còn được để ngồi trong Hội đồng
Khoa học của trường. Chỉ ít lâu sau, Đảng ủy trường nhận xét ông muốn
“tranh giành lãnh đạo với Đảng”.

Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi ngạc nhiên, chế độ cũ hai lần giao chức cho tôi mà tôi có màng tới đâu”. Nhưng té ra vấn đề không phải là
“ghế”, mà là những ý kiến của ông ở Hội đồng Khoa học luôn luôn khác
với ý kiến của chi bộ. Trong một cuộc họp, khi nghe ông Đỗ Mười thao
thao nói về “hợp tác hóa”, về chủ trương phải đưa những người bần cố
nông lên làm lãnh đạo hợp tác và “phải đào tạo họ”, Giáo sư Luân hỏi:
“Nhà nước định đào tạo trong bao lâu?”. Ông Đỗ Mười nói: “Tình hình
gấp rút, đào tạo ba ngày”. Giáo sư Châu Tâm Luân nhớ lại: “Tôi bắt đầu
ngao ngán vì muốn thay đổi thì phải bắt đầu từ cái đầu, mà những ‘cái
đầu’ thì như thế!”. Sau lần gặp ông Đỗ Mười, nhà kinh tế nông nghiệp
Châu Tâm Luân được đưa về Viện Khoa học Xã hội. Không chỉ có những
đụng độ tại cơ quan. Ở Hội đồng Nhân dân, Giáo sư Châu Tâm Luân là
trưởng Ban Nông nghiệp. Trong một phiên họp toàn thể thảo luận về các
chương trình khoa học của Thành phố, sau khi nghe ông Luân tranh luận,
một đại biểu trong Hội đồng mặc quân phục đứng dậy xin ngưng cuộc cãi
vã, và lớn tiếng: “Các chuyên viên đã để ra rất nhiều thời giờ soạn
thảo, đại biểu đó tư cách gì mà đòi sửa qua sửa lại”. Ông Luân cố dằn
lòng: “Tôi xin ngưng cuộc thảo luận, bởi như vị đại biểu vừa nói, đã
có các chuyên viên nghiên cứu cho chúng ta rồi thì chúng ta chỉ còn là
chuyên viên giơ tay thôi”. Chủ trì phiên họp, ông Mai Chí Thọ không
nói gì, chỉ yêu cầu biểu quyết. Nhìn thấy ông Luân không giơ tay, ông
Mai Chí Thọ hỏi: “Ai không chấp thuận?”. Ông Luân cũng không giơ tay,
ông nói: “Toàn thể chấp thuận, một phiếu trắng”.

Một số cán bộ cách mạng tốt bụng bắt đầu lo lắng cho vị giáo sư trẻ
tuổi này, một Trưởng Ban Đảng khuyên: “Tôi sáu mươi tuổi, người ta vẫn
xem tôi như con nít, phải ăn nói thận trọng lắm. Anh nhớ, anh chỉ mới
hơn ba mươi tuổi”. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tại diễn đàn của Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôi đề nghị phải áp dụng ‘kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước”. Ông Xuân Thủy nghe, nói với tôi:
‘Anh phải có người đỡ đầu, anh về nói với Sáu Dân đi”. Tôi trả lời ông
Xuân Thủy: ‘Nếu tôi nói đúng thì các anh phải nghe chứ sao lại cần
người đỡ đầu?’. Sau đó, ông Mai Chí Thọ nhắc: ‘Cậu đúng, nhưng áp dụng như vậy thì phức tạp quá, làm sao chúng tôi quản lý được. Muốn làm phải có những người như cậu. Mà nói thật chúng tôi chưa thể tin hoàn toàn những người như cậu’”.Theo ông Luân: “Những năm ấy, tôi chê ông Võ Văn Kiệt nhát, ‘xé rào’ là vá víu; phải “phá vỡ ” để áp dụng kinh tế thị
trường, chứ không thể phá những đoạn rào. Ông Mai Chí Thọ nghe, nhắc:
‘Phải giữ chính quyền trước hết, chính sách sai thì còn sửa được chứ
mất chính quyền là mất hết”. Về sau tôi mới thấy ông Mai Chí Thọ đã
nói rất thật lòng, họ đã ngủ rừng hàng chục năm để có chính quyền, làm
sao họ để mất cái mà họ vừa giành được đó”.

Hai vợ chồng Giáo sư Châu Tâm Luân đều học ở Mỹ. Trước năm 1975, gia đình ông đã định cư ở một nước Bắc Âu, nhưng cả hai đều chọn con đường về nước. Sau năm năm cố gắng chòi đạp trong chế độ mới, ông không tìm thấy một cơ may thay đổi nào. Đầu năm 1979, ông vẫn còn được trả lời phỏng vấn các phóng viên nước ngoài, nhưng càng về sau thì không thấy nhà báo nào gặp ông nữa. Giáo sư Châu Tâm Luân nói: “Tôi bắt đầu có dự cảm bất ổn. Khi tình cờ gặp một vài phóng viên, nghe họ nói mấy lần đến Việt Nam xin gặp tôi, đều được chính quyền trả lời là Giáo sư Châu Tâm Luân đang đi công tác xa. Tôi biết tôi đang dần dần bị cô lập”.

Dù từng hoạt động trong các phong trào chống đối dưới chế độ Sài Gòn,
ông Huỳnh Kim Báu vẫn phải thừa nhận: “Trước 1975, mặc dù chính quyền bị coi là bù nhìn, nhưng trí thức vẫn được trọng dụng, họ có quyền
thực sự trong chuyên môn. Sau giải phóng, chính quyền được nói là của
mình, nhưng trí thức gần như chỉ được dùng như bù nhìn, trong khi đa
phần họ là những người khẳng khái”.

Năm 1977, có lần hệ thống nước máy của Thành phố bị đục, ông Võ Văn Kiệt mời các nhà trí thức tới hiến kế. Nhiều người phát biểu, riêng
ông Phạm Biểu Tâm ngồi im. Ông Kiệt hỏi: “Sao vậy anh Tâm?”. Ông Phạm Biểu Tâm nguyên là chủ tịch Hội Sinh viên Hà Nội trước 1945. Năm 1963, con gái Ngô Đình Nhu là Ngô Đình Lệ Thủy thi Y khoa đã bị ông đánh rớt, dù bị nhà Ngô gây áp lực. Ông là một nhà giáo được sinh viên kính nể. Ông Tâm được nói là rất quý ông Kiệt, nhưng có lẽ do quá bị dồn nén, ông đứng dậy nói: “Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khỏe, vì
cái gì cũng đã có mấy anh nghĩ hết. Nước dùng hàng ngày là chuyện mấy
anh đâu phải chuyện tụi tui”.

Một thời gian sau, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trả lại chức Hiệu phó. Trường sợ mang tiếng không nhận, ông khóa phòng, giao chìa khóa, tự chấm dứt vai trò “chim kiểng” của mình. Theo ông Võ Văn Kiệt, Thành ủy vẫn để Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hàng năm sang Pháp dạy học. Trong một lần đi Pháp, ông ở lại luôn bên đó rồi viết thư về cho ông Kiệt nói rằng, công việc nghiên cứu nhiều, ông cần phải ở nơi có phương tiện cho ông làm việc, khi nào đất nước thực sự cần, ông sẽ về.

 
    Còn Giáo sư Châu Tâm Luân, nhân một buổi tối rủ ông Võ Ba tới nhà

chơi, đã đưa cho Võ Ba coi một tập đánh máy hai mươi trang về “tình
hình kinh tế nông nghiệp miền Nam”, rồi nói: “Võ Ba ơi, mình rất mừng
vì bản báo cáo này của mình đã được Mặt trận Tổ quốc đánh máy gởi đi.
Hai lần trước thì họ không chịu đánh máy. Nhưng, Võ Ba ạ, họ đánh sai
hết, những thuật ngữ như ma trận họ đánh thành mặt trận ông ạ”. Mấy
hôm sau, Võ Ba chạy qua nhà Giáo sư Luân thì thấy cửa đóng, bên trong
thấp thoáng bóng mấy công an đến “chốt nhà”. Cho dù, sang tới Thái Lan
ông bị các thuyền nhân khác đánh rất đau, khi viết thư về, trả lời câu
hỏi của ông Huỳnh Kim Báu, “liệu vượt biên có phải là một quyết định
sai lầm”, Giáo sư Châu Tâm Luân vẫn cả quyết: “Không, Báu! Dù phải trả
giá đắt, mình vẫn thấy đi là đúng”.

Trong số các trí thức miền Nam, ông Võ Văn Kiệt “xếp” Giáo sư Châu Tâm Luân vào hàng “khó tính”. Tuy nhiên, ông kể: “Đến nhà Châu Tâm Luân mình rất thích vì ảnh thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, có khi như búa bổ.
Ảnh hy vọng khi đất nước hòa bình, với sự phì nhiêu của đất đai miền
Nam, sẽ có dịp thi thố giúp phát triển nền nông nghiệp. Nhưng một thời
gian sau, thấy cơ chế như thế thì không thể nào đóng góp được”.

Một người khác từng quen biết Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt nhưng cũng phải vượt biên là Kỹ sư Phạm Văn Hai, giám đốc nhà máy dệt Phong Phú. Ông Phạm Văn Hai là người đưa kỹ nghệ nhuộm vào miền Nam. Ông có hai người con, một người được đặt tên là Phạm Chí Minh, một người là Phạm Ái Quốc. Sau ngày 30-4, ông Phạm Văn Hai vẫn nhiệt tình tư vấn để phục hồi ngành dệt và nghiên cứu chất kích thích cây cỏ. Nhưng năm 1977 ông quyết định “đi”. Vượt biên hai lần, cả hai lần đều bị bắt. Lần đầu bị
bắt ở Kiên Giang, Thành ủy lãnh. Lần hai, bị bắt ở thành phố, ông Võ
Văn Kiệt vào thăm, ông Hai nói: “Cho dù anh quan tâm nhưng như thế này
thì không làm được”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Những người như Kỹ sư Phạm Văn Hai, như Giáo sư Châu Tâm Luân…, nếu chỉ khó khăn về cuộc sống họ sẽ vượt qua, nhưng nếu bị đặt vào hoàn cảnh không thể đóng góp thì họ không chịu được. Tôi cũng không biết làm gì hơn, chỉ đề nghị
mấy ảnh đừng vượt biên nguy hiểm”.

Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Tôi tiếc đứt ruột khi để những anh em trí
thức ấy ra đi, nhưng biết là nếu họ ở lại, thì cơ chế hiện thời cũng
chưa cho phép mình sử dụng họ”. Trước khi vượt biên, ông Dương Kích
Nhưỡng, một công trình sư cầu cống, thủy điện, nói với ông Võ Văn
Kiệt: “Ước mơ của các anh rất đẹp, nhưng các anh làm như thế này là
không được. Đi đâu cũng nghe nói tới nghị quyết, làm cái gì cũng chỉ
theo tinh thần nghị quyết này, chủ trương kia thay vì theo pháp luật.
Trị nước mà bằng nghị quyết và chỉ thị chung chung thì không được”.

Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước Huỳnh Kim Báu nhớ lại: ông Kiệt biết là các trí thức bắt đầu vượt biên, ông gọi tôi lên và dặn “Nghe ngóng,
nếu có anh em trí thức bị bắt ở đâu, anh phải lãnh về”. Khi nhận được
tin công an Bình Thuận bắt giam Kỹ sư Dương Tấn Tước, ông Kiệt cấp
giấy cho ông Báu ra Bình Thuận xin “di án về Thành phố”. Ông Báu kể:
“Công an Bình Thuận thấy giấy của Thành ủy thì cho nhận ‘can phạm’.
Nhưng khi anh Tước thấy tôi mừng quá định kêu lên, tôi đã phải giả vờ
làm mặt lạnh, bước tới, còng tay anh Tước. Dọc đường, tôi cứ phải làm
thinh mặc cho Kỹ sư Dương Tấn Tước ngơ ngác. Qua khỏi Bình Thuận, tôi mới mở còng và giải thích: Công an Bình Thuận mà biết, người ta chụp
đầu cả tôi”.

 
    Đích thân ông Kiệt cũng nhiều lần đến các trại giam để bảo lãnh các trí thức. Theo ông Phạm Văn Hùng và Nguyễn Văn Huấn, hai người giúp việc thời đó của ông Kiệt, hình thức “xử lý” đối với những trí thức vượt biên của “Anh Sáu Dân” là kêu tụi tôi đích thân đi làm lại hộ khẩu và sổ gạo cho họ. Nhưng phần lớn các trí thức đã ra đi lặng lẽ. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi đi tất cả sáu lần. Lần bị giữ lâu nhất là ở Rạch Giá, cả tháng trời. Nhưng tôi không khai mình là ai. Như bốn lần trước, ở nhà cứ lo một cây vàng thì được thả”.

    Có những người không chịu nhờ Thành ủy, hoặc “lo” bằng vàng. Theo ông Huỳnh Kim Báu, khi vượt biên bị bắt, Giáo sư Lê Thước đã tự sát…
Nếu nghĩ Trí thức là tầng lớp có đủ năng lực và trách nhiệm giải quyết
chuyện đời, thì trong giai đoạn đó, quan sát Đảng quản lý xã hội, có
thể nhận định rằng: Trí thức đã tuyệt chủng.

(Nguyễn Lương Thịnh đặt tiêu đề và biên tập ngắn lại từ tư liệu của 8
Lam Hạ Đình Nguyên chuyển qua emai 2010 và bổ sung thêm dữ kiện).