TÔI ĐÃ THẤY 10 LẦN TỔNG THỐNG MỸ ĐIỀU QUÂN RA PHỐ (Nguyễn Tiến Hưng)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng Gửi tới BBC từ Virginia, Hoa Kỳ

Cả thế giới đang ngỡ ngàng về biểu tình và bạo loạn ở nước Mỹ sau biến cố George Floyd, và từ Mỹ lan tràn tới nhiều nước khác.

Việc Tổng thống Donald Trump điều Vệ binh Quốc gia về Washington và nói ‘nếu các thống đốc tiểu bang không giữ được trật tự thì ông sẽ cho quân đội tới giúp để giải quyết cho nhanh chóng’ thì đang bị nhiều người chỉ trích năng nề, kể cả một số quan chức cao cấp tại Bộ Quốc Phòng, như Tướng Colin Powell (cựu Ngoại trưởng), Tướng Martin Dempsey (cựu Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng), cựu Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis, và cựu Phó Tổng thống Joe Biden, ứng cử viên tổng thống 2020 của đảng Dân chủ.

Trong bài này, chúng tôi không bàn về chuyện ông Trump đúng hay sai và cung cách hành xử của ông, mà chỉ nói tới kinh nghiệm cá nhân về việc tổng thống Mỹ điều quân dẹp bạo loạn.

Trước hết là một câu chuyện lịch sử.

image.png
Hình chỉ để minh họa.

Xe tăng trên phố Washington D.C.?

Hồi còn làm việc tại Dinh Độc Lập, VNCH, một hôm Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hỏi tôi: giáo sư ở Mỹ lâu năm nên chắc biết chuyện có lần xe tăng đã phải điều tới Washington để dẹp bạo động? Tôi bỡ ngỡ về câu hỏi, rồi nói tôi không nghĩ rằng ở Mỹ lại có thể xảy ra chuyện xe tăng tới Washington. Ông mỉm cười, rồi kể cho tôi một câu chuyện đã xảy ra ở Sàigòn (lúc tôi còn ở Mỹ): đó là biến cố về các thương phế binh VNCH chiếm đất, rồi cắm lều trại đòi thêm đất. Lúc đầu thì ở Nha Trang, rồi dần dần lấn về Vườn Tao Đàn ở Sàigòn.

Cựu chiến binh là một vấn đề nhạy cảm, thương phế binh lại là một vấn đề có khả năng châm ngòi biểu tình, bạo loạn.

Đoàn cựu chiến binh có chương trình sẽ kéo tới trước Dinh Độc Lập để cắm lều, đòi cấp đất. Thấy vậy một quan chức Mỹ xin gặp và cố vấn ông Thiệu là phải dẹp đi ngay vì “có thể là Cộng sản đứng đằng sau giật giây.”

Người này đem ra một tiền lệ là đã có lần chính cựu chiến binh Mỹ cũng đã biểu tình, cắm lều trại ở vùng Washington D.C., nhưng tổng thống Herbert Hoover đã ra lệnh cho Tướng Douglas MacArthur dẹp đi ngay để khôi phục an ninh và trật tự, “MacArthur thẳng thừng ra tay, và đã thành công, cho nên ông nổi tiếng.”

Nghe vậy, ông Thiệu suy nghĩ về lời cố vấn và – do tính đa nghi vốn có của ông – đã đi tới kết luận rằng đây là xúi bậy để cho mình mắc bẫy: “cái này là xúi trẻ con ăn cứt gà rồi,” ông nói.

Khi đoàn biểu tình kéo tới trước Dinh Độc Lập cùng với nhiều người dân đi theo ủng hộ, ông Thiệu đã hành xử khôn ngoan: thay vì cho cảnh sát dẹp đi như ông Mỹ cố vấn, ông cứ để cho họ cắm lều, rồi cho người mang đồ ăn, nước uống tới tiếp tế. Hôm sau, ông mới cho đại diện ra gặp trưởng đoàn thương phế binh để trình bày hơn thiệt, nại tới lòng yêu nước của họ, và điều đình để thỏa mãn một số yêu sách.

Đoàn người vui vẻ ra về.

Ông nói: “Dĩ nhiên là mình biết rằng không thể thỏa mãn được hết mọi yêu sách, nhưng ít ra thì ngay lúc ấy, đã tránh được hành động châm ngòi bạo loạn.”

Tò mò, chúng tôi nghiên cứu thêm về vụ này thì mới biết là vào năm 1932, giữa cuộc khủng hoảng kinh tế, cựu chiến binh Mỹ đã kéo về thủ đô Washington để biểu tình. Số là tám năm trước đó (1924), Quốc Hội và Chính phủ có hứa sẽ cấp phát tiền thưởng ‘bonus’ cho binh sĩ tham gia cuộc Thế chiến I. Tiền thưởng là từ $1 tới $1.25/ cho mỗi ngày phục vụ. Ai được $50 thì được trả ngay, nhưng trên $50 thì nhận được giấy chứng chỉ, tới 1945 mới được lĩnh.

Vì khủng hoảng trầm trọng, nhiều cựu chiến binh thất nghiệp. Trong phiên họp thường niên ngày 15 tháng 3, 1932 tại Portland (Oregon), thượng sĩ Walter Waters đứng lên hô hào anh em hãy nhảy lên xe lửa kéo về thủ đô cắm lều lập một ‘Hooverville” (thành phố Hoover, tên của Tổng thống) đòi chính phủ đổi chứng chi ra tiền mặt ngay chứ đợi đến 1945 thì chắc chết hết rồi. Thế là phong trào ‘Bonus Army’ (Đội quân Tiền thưởng) được thành lập. Từ trạm này tới trạm khác, càng về gần tới Washington lại càng đông. Ngày 29 tháng 5 thì toán đầu tiên từ Portland đã về tới nơi. Khoảng 15,000 người gồm cả 1,100 vợ con cắm lều tại một khu vực ở Anacostia, ngoại ô Washington.

Tình báo quân đội Mỹ báo cáo về Tòa Bạch Ốc là có cộng sản lẩn vào đoàn cựu chiến binh để lật đổ chính phủ. Báo chí hùa theo làm rùm beng. Ngày 14 tháng 7 – kỷ niệm phá ngục Bastille, ngày Lễ Độc lập của Pháp, Phó Tổng thống Charles Curtis lo cuộc biểu tình sẽ dẫn tới một cuộc nổi dậy giống như biến cố Bastille.

Tới ngày 28/07/1932 thì có bạo động thật.

Tướng Douglas MacArthur theo lệnh Tổng thống Herbert Hoover liền cho quân đội từ Fort Meyer ở Arlington, Virginia, gần ngay nhà chúng tôi, tiến qua cầu trên sông Potomac sang Washington. Phụ tá của ông là Trung tướng Dwight Eisenhower (sau làm Tổng thống) khuyên ông MacArthur không nên xuống đường và chỉ nên chỉ định một sĩ quan cao cấp để làm việc này. MacArthur không nghe, lại còn chỉ thị ngay Eisenhower phải đi theo ông luôn. Sĩ quan dẫn đầu đoàn quân lại chính là Tướng George Patton, theo sau là 5 chiếc xe tăng với 300 binh sĩ đội nón sắt đi quần trên đường phố Washington, dùng lựu đạn khói dẹp hết biểu tình.

Như vậy là cả ba tướng lừng danh của nước Mỹ là MacArthur, Eisenhower và Patton đã cùng với xe tăng tuần hành trên đường phố thủ đô để dẹp bạo động.

Mười lần thấy tổng thống Mỹ điều quân dẹp bạo loạn

Ánh lửa từ những bó đuốc của đoàn người da trắng đi tuần hành tại Charlottesville, Virginia vào tháng 8/2017 làm sáng rực bầu trời khuôn viên trường Đại Học Virginia (UVA) gợi lại cho chúng tôi bao nhiêu kỷ niệm về vấn đề da màu và biểu tình ở nước Mỹ trong suốt bảy năm theo học tại nơi đây (1958-1965).

Đại học Virginia là trường của người da trắng vì không nhận sinh viên da đen. Và sinh viên da trắng thì phải là phái nam. Muốn vào UVA, nữ sinh viên phải theo học tại Mary Washington College ở Fredericksburg, cách Charlottesville 66 dặm.

Nhiều cuộc biểu tình và bạo động đã xảy ra trong thập niên 1960, giai đoạn quan trọng của phong trào tranh đấu cho nhân quyền:

1962 – TT John F Kennedy và nổi loạn ở Oxford, Mississippi:

Trước 1962 thì vào năm 1957 đã có biến cố lớn gọi là “Little Rock Nine” (“nine” ám chỉ chín học sinh), nhưng chúng tôi chưa tới Mỹ nên không được chứng kiến. Ngày 23/09/1957, Tổng thống Dwight Eisenhower đã điều quân từ Sư đoàn Dù 101 tới Little Rock, Arkansas để vãn hồi trật tự và bảo vệ chín học sinh da đen khi chính Thống đốc Arkansas là Orval Faubus kêu gọi Lực lượng Vệ binh tới để chận việc chín em nhập học trường trung học Central High School.

Cuộc bạo loạn đầu tiên mà chúng tôi được thấy là biến cố ngày 10/09/1962 tại Đại học Mississipi ở thành phố Oxford, Mississipi khi một sinh viên da đen tên là James Meredith, cựu quân nhân Không quân, muốn ghi danh vào học. Bạo động bùng nổ làm cho hai người chết và một số bị thương. Tổng thống Kennedy phải liên-bang-hóa Vệ binh Quốc gia và điều tới để dẹp bạo loạn, buộc phải chấp nhận anh James.

Toàn bộ thành phố Oxford đã bị đặt dưới quyền kiểm soát của quân đội.

Trong tất cả các cuộc biểu tình không bao giờ có cả một thành phố bị đặt dưới quyền kiểm soát của quân đội như vậy. Làm sao mà ở nước Mỹ lại có thể có cái cảnh này, chúng tôi tự hỏi? Sau cùng thì Meredith đã được nhập học và trở thành sinh viên da màu tốt nghiệp đại học Mississippi đầu tiên vào tháng 8/1963.

1963 – TT Kennedy điều quân tới Đại học Alabama:

Ngày 11/06/1963 chúng tôi thật ngỡ ngàng khi thấy TV chiếu cảnh Thống đốc Alabama, ông George Wallace đứng chặn ngay trước cửa Đại học Alabama (ở Tuscaloosa) – đối đầu với Thứ trưởng Tư Pháp Nicholas Katzenbach – không cho hai sinh viên da đen Vivian Malone và James Hood vào ghi danh. Tổng thống Kennedy lại phải đưa vệ binh tới, và cảnh sát tháp tùng hai sinh viên nhập học.

Khi được bầu lên thống đốc, ông Wallace đã tuyên bố sẽ đảm bảo: “Tách biệt màuu ra bây giờ, tách biệt ngày mai, tách biệt mãi mãi.” (segregation now, segregation tomorrow, segregation forever).

Tiếp theo là cuộc biểu tình vĩ đại “March on Washington” ngày 28/08/1963 do Mục sư Martin Luther King lãnh đạo. Thông điệp của ông về “Tôi có một giấc mơ” (I have a dream) và phản ứng của đoàn người biểu tình ước tính tới 250.000 người.

Ngày hôm sau, một nhà lãnh đạo nhân quyền bị ám sát ở Jackson, Mississipi.

1965 – TT Lyndon Johnson và “Bloody Sunday”:

Ngày 7/3/1965 được gọi là ngày “Chủ nhật đẫm máu” (Bloody Sunday) ghi dấu ấn cuộc biểu tình về nhân quyền ở tiểu bang Alabama.

Đoàn biểu tình do John Lewis lãnh đạo tuy ôn hòa nhưng đã bị cảnh sát đánh đập khi họ cố gắng đi qua cây cầu Edmund Pettus của thành phố Selma, bất chấp lệnh cấm.

TT Johnson phải điều vệ binh tới để bảo vệ cho Mục sư Martin Luther King Jr. khi ông dẫn đầu hơn 3.000 người tuần hành qua cây cầu này hai tuần sau đó, và tiếp tục chuyến đi nổi tiếng dài 54 dặm đến Montgomery, thủ phủ của Alabama.

Biến cố này là bước ngoặt của hành trình nhân quyền, vì nó dẫn tới “Luật về Quyền bầu cử” (Voting Rights Act) năm 1965.

1967 – TT Johnson và bạo loạn ở Detroit:

Bạo loạn xảy ra vào sáng sớm ngày 23/7/1967 khi lực lượng cảnh sát gần như hoàn toàn chỉ có người da trắng của thành phố Detroit bắt giữ nhiều người da đen bước ra từ một ‘câu lạc bộ uống rượu sau giờ làm việc.’

Sự việc này đã châm ngòi một thời gian bạo lực tàn khốc: tới 43 người thiệt mạng và nhiều tài sản bị phá hủy.

TT Johnson phải điều hàng ngàn quân đội và Vệ binh Quốc gia tới Detroit.

1968 – TT Johnson và khủng hoảng Chicago:

Năm 1968 là năm rất căng thẳng sau vụ ám sát Mục sư Martin Luther King Jr. ở Memphis, Tennessee vào ngày 4/4/1968.

Khi tin tức lan rộng, bạo loạn và cướp bóc diễn ra tại nhiều thành phố lớn.

Tại Chicago trong đêm bạo loạn đầu tiên, chín người, tất cả đều là người da đen, đã thiệt mạng. Quân đội được điều động tới, và hàng ngàn binh sĩ tràn ngập các khu có bạo động.

Kết cục là 12 người chết, 162 tòa nhà bị phá hủy, và khoảng 3.000 người bị bắt giữ.

1968 – TT Johnson điều trên một sư đoàn tới Washington:

Bốn ngày sau, cướp bóc và bạo loạn đã bùng nổ ra khắp nơi trên thành phố Washington. Số quân đội được TT Johnson điều tới để vãn hồi trật tự lên tới 13.600. Đây là số quân đông nhất – trên một sư đoàn – đã phải tới đóng tại một thành phố của nước Mỹ kể từ sau nội chiến.

1968 – TT Johnson và bạo động ở Baltimore:

Cùng một thời điểm, bạo động ở Baltimore, Maryland đã tàn phá thành phố này trong hai tuần: sáu người thiệt mạng, hàng chục người bị thương, và hỏa hoạn, cướp bóc gây nhiều thiệt hại.

Hàng ngàn Vệ binh Quốc gia đã được điều động để tuần hành ngày đêm trên thành phố.

1989 – Tổng thống George H.W. Bush dẹp bạo loạn sau bão Hugo:

TT Bush phải điều động Vệ binh tới để tái lập trật tự tại đảo St. Croix thuộc Quần đảo Virgin của Hoa Kỳ sau cơn bão Hugo thật lớn.

Cướp bóc và căng thẳng chủng tộc vốn đã âm ỷ từ lâu bây giờ bùng nổ sau những thiệt hại tàn khốc như chôn vùi hòn đảo này trong đổ nát.

Sau cùng, TT Bush đã phải điều tới 1.100 quân đội được vũ trang đầy đủ.

1992 – Tổng thống Bush và “cuộc nổi dậy” ở Los Angeles:

Một người da đen tên là Rodney King bị cảnh sát bắt giữ và đánh đập. Ngày 29/4/1992 bồi thẩm đoàn xét xử vụ việc đã tha bổng cho bốn nhân viên của Sở Cảnh sát Los Angeles (LAPD) về tội sử dụng vũ lực quá mức.

Bạo loạn liên tục xảy ra vào tháng 4 và tháng 5 năm 1992 đôi khi còn được gọi là “cuộc nổi dậy ở Los Angeles.”

Đây là lần đầu tiên thảm cảnh được quay video và phổ biến rộng rãi trên TV gây sốc cho mọi người. Hàng ngàn người nổi loạn đã gây ra cảnh cướp bóc, tấn công, đốt phá, và giết người.

Tình hình hỗn loạn chỉ được giải quyết sau khi TT Bush điều trên 2.000 quân và một số cơ quan thực thi pháp luật liên bang tới để phối hợp với Lực lượng Vệ binh California vãn hồi trật tự.

Khi bạo loạn chấm dứt, 63 người đã thiệt mạng, 2.383 người bị thương, hơn 12.000 người bị bắt và thiệt hại về tài sản ước tính lên trên 1 tỷ đô la.

2020 – TT Donald Trump điều quân tới Washington:

Vụ việc cảnh sát viên Derek Chauvin gây nên cái chết đau đớn của George Floyd ở Minneapolis (Minnesota) ngày 25/5 vừa qua đã gây ra tình trạng bất ổn trên toàn quốc kéo dài tới ngày hôm nay. Các cuộc biểu tình đã lan ra thật nhanh tới Washington và nhiều thành phố, rồi tới các nước khác.

Từ biểu tình tới bạo động cũng không xa nhau lắm. Bạo loạn đã xảy ra tại Washington DC kéo dài 48 giờ: TT Trump điều 5.000 vệ binh và một số quân đội tới thành phố để phòng ngừa.

Tại Minneapolis thì ngay ngày hôm sau vụ việc, bốn sĩ quan cảnh sát đã bị sa thải và ông Chauvin bị buộc tội giết người, nhưng bạo động đã bùng nổ.

Phần nào thì sự lan rộng mau lẹ và mạnh mẽ của khủng hoảng này cũng do bối cảnh coronavirus buộc nhiều người phải ở nhà để tránh lây lan trên hai tháng. Phần đông, nhất là giới trẻ rất bực bội, cảm thấy bất lực và bị cô lập, cho nên khi có cơ hội ra ngoài thì nắm lấy ngay.

Nhiều người ở nhà vì bị nghỉ phép, hay thất nghiệp do các cơ sở, nhà máy đóng cửa, cho nên lo lắng. Không những lo về rủi ro bệnh tật mà còn về chính cuộc sống. Trong tình trạng bất an, lại có nhiều thì giờ nhàn rỗi, cho nên theo dõi tin tức nhiều hơn, dễ bị kích động hơn, chiều hướng tham gia biểu tình lên cao hơn.

Ngoài ra, lại còn yếu tố truyền thông. Truyền thông chính thống và truyền thông xã hội, cả hai đều giúp chuyển tải tin tức và hình ảnh ấn tượng thật nhanh chóng, cũng như tăng mạnh cường độ về tranh luận, cãi vã.

Tôi nhận thấy có yếu tố chính trị rất quan trọng, chỉ còn năm tháng nữa là tới ngày bầu cử tổng thống: sự chia rẽ về chính trị đã lan sang xung đột về xã hội.

Nhiều vấn đề đặc trưng và sức mạnh của Hoa Kỳ

Đối xử với người Mỹ gốc Phi Châu nói riêng và kỳ thị chủng tộc nói chung là một vấn đề nan giải triền miên của xã hội Mỹ. Nó như cục than hồng âm ỷ, chỉ chờ cơ hội để bốc lửa, như hiện đang tiếp tục xảy ra ở Minneapolis, một thành phố có tình trạng phân biệt sắc tộc và cách biệt giàu nghèo nghiêm trọng đã từ lâu, nhất là về vấn đề nhà ở và trường học, hai lãnh vực rất nhạy cảm. Tuy được chính quyền địa phương quan tâm nhiều nhưng chưa có những giải pháp thỏa đáng.

Tâm lý kỳ thị ở Mỹ có nguyên do sâu xa từ lịch sử, văn hóa, lối sống. Biểu hiện của kỳ thị có thể mờ có thể rõ, nhưng nếu rõ quá thì người kỳ thị rất dễ bị luật pháp trừng phạt, không kể là ai.

Nước Mỹ là một quốc gia đa sắc tộc, đa văn hóa và tự do. Nhưng tự do được xây dựng trên nền tảng pháp luật mạnh mẽ. Quyền tự do tối đa của con người được tôn trọng, nhưng bị chi phối bởi luật pháp nghiêm minh và rõ ràng, không bao che.

Người dân được tự do biểu tình, phát biểu, công kích chính phủ – kể cả tổng thống – như đang xảy ra liên tục, nhưng không được vượt qua ranh giới của luật pháp.

Mỗi khi biểu tình đi tới bạo động thì Vệ binh Quốc Gia – và nhiều khi tổng thống phải điều động cả quân đội tới để vãn hồi trật tự. Có lúc cả một thành phố đã bị đặt dưới quyền kiểm soát của quân đội như tại thành phố Oxford, Mississipi (tháng 9/1962) mà tôi đã đề cập trên đây.

Nhưng mặt khác thì chính xã hội đa chủng – tụ tập được nhiều tài năng trên thế giới, và quyền tự do tối đa để cho con người phát triển hết mức lại là sức mạnh của nước này.

Cho nên sự tiến bộ về mọi mặt, nhất là về xã hội thì rất mau lẹ. Có thể nói là về những vấn đề khó khăn trong xã hội Mỹ thì khi được giải quyết, nó lại trở thành động lực để thúc đẩy những cải tổ sâu rộng, làm cho nước này càng trở nên năng động và tiến xa hơn.

Nhắc lại ấn tượng cá nhân

Mùa Hè năm 1958 chúng tôi nhập học tại đại học Virginia ở Charlottesville. Thỉnh thoảng thì vào cuối tuần chúng tôi thả bộ xuống phố để tới rạp Paramount xem phim. Dọc đường thấy nhiều tượng đài, dấu vết kỷ niệm của cuộc Nội chiến (Civil War) cũng như cảnh nghèo nàn của người da màu.

Không những ở trạm xăng mà ở cả rạp cinema thì phòng vệ sinh cũng treo bảng nhựa trên cửa ghi thật rõ: một cửa là “WHITE” (Da Trắng) và một cửa là ‘BLACK” (Đen) hay “COLORED” (Da Màu). Lúc đầu chúng tôi cũng hơi lúng túng không biết mình nên đi cửa nào.

Mùa Thu năm 1958 thì chúng tôi không thể tưởng tượng được rằng sẽ có ngày nào một người Mỹ gốc Phi Châu có thể làm tới chức thống đốc của một tiểu bang.

Bởi thế cho nên, vào mùa Thu năm 2008 chúng tôi thật ấn tượng khi thấy ông Barack Obama được bầu lên vị trí lãnh đạo cao nhất của nước Mỹ.

Sau cuộc khủng hoảng hiện nay, chắc chắn là sẽ có những bước tiến về luật pháp, nhất là về cải tổ lực lượng cảnh sát, và về mặt xã hội, như tăng số cung nhà rẻ cho người nghèo, giảm thiểu sự phân biệt sắc tộc khi kế hoạch và xây dựng các trường trung học.

Những bước tiến đó dài bao nhiêu thì ta còn phải chờ tới sau cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 3 tháng 11 thì mới có thể thấy rõ hơn.

Nhưng tôi luôn tin rằng nước Mỹ sẽ vượt qua.

Bài thể hiện quan điểm riêng của TS Nguyễn Tiến Hưng, nguyên giáo sư kinh tế tại N.C. Wesleyan College, Trinity College, cựu kinh tế gia IMF (1966-1070). Ông là cựu Bộ trưởng Kế hoạch VVNCH 1973-1975, phụ tá về Tái Thiết của TT Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập (1986), Khi Đồng Minh tháo chạy (2005), Tâm tư Tổng thống Thiệu (2010) và “Khi Đồng Minh nhảy vào” (2016).

 

https://www.bbc.com/vietnamese/forum-53022252