TOÀN CẢNH CUỘC ĐẤU KINH TẾ, AN NINH QUỐC GIA GIỮA MỸ-TRUNG CỘNG

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Ngoài cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu do đại dịch virus Vũ Hán, thế giới hiện còn phải đối diện với một cú sốc hiện sinh thứ ba, đó là màn kịch lớn trong đầu thế kỷ 21 này: Một Trung Cộng gian manh và quyết đoán hơn!

Các nền dân chủ theo khuynh hướng tự do chỉ đơn giản là xem Trung Cộng như một đối thủ cạnh tranh cung ứng chuỗi tiêu dùng và hiếu chiến, nhưng trong thập niên qua, Bắc Kinh đã phát triển và thay đổi để trở thành một đối thủ về kinh tế và an ninh quốc gia mà Hoa Kỳ phải coi chừng trong cuộc cạnh tranh về ý thức hệ và chiến lược.

Sự cạnh tranh kinh tế và tài chính giữa Bắc Kinh và Washington hiện đang trở nên thường trực trong lĩnh vực công nghiệp, đầu tư, hệ thống thông tin và đổi mới; ngoài ra còn có vấn đề về những lỗ hổng bảo mật – làm dấy lên lo ngại về việc củng cố hệ thống kinh tế và an ninh quốc gia của Hoa Kỳ.
Vở diễn lớn của Trung Cộng – với bản chất độc đoán và cứng nhắc của hệ thống cai trị – vốn không có đối thủ của Chủ tịch Tập Cận Bình – là mối đe dọa lớn nhất đối với trật tự toàn cầu.

Nước Mỹ hiện nay do Tổng thống Biden cầm quyền – cần nhận thức rõ và đáp trả kịp thời – đặt mục tiêu cạnh tranh địa chính trị với Bắc Kinh vào vị trí hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.

Hai mặt của một đồng tiền

Theo cách thức lưỡng đảng, Hoa Kỳ hiện đã chấp nhận mối quan hệ giữa kinh tế và an ninh quốc gia – trong mối quan hệ song phương với Trung Cộng. Ví dụ, chính quyền Biden đã tiếp tục các quy tắc từ thời Trump nhắm vào các công ty kỹ thuật công nghệ Trung Cộng – vốn được coi là mối đe dọa đối với an ninh chuỗi cung ứng của Mỹ. Chiến lược an ninh quốc gia năm 2017 của chính quyền Trump rất quan trọng, đặc biệt là phần “An ninh kinh tế là an ninh quốc gia”.

Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Tàu (ĐCST) đã tiết lộ vào cuối năm ngoái rằng Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 (2021-2025) của họ – tại Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc bắt đầu từ ngày 5/3/2021 – sẽ không chỉ bao gồm quân sự, mà còn cả kinh tế, tài chính và an ninh kỹ thuật công nghệ.

Đối với ĐCST, an ninh quốc gia nghĩa là an ninh dưới sự kiểm soát và cai trị của nhà cầm quyền Trung Cộng. Tất cả các hình thức an ninh, bao gồm lương thực, việc làm, kỹ thuật công nghệ, khả năng tự lực, nền kinh tế trong nước, sự ổn định xã hội và môi trường… đều gắn liền với các mục tiêu chính trị lớn hơn. Ngoài ra, sự toàn vẹn lãnh thổ – bao gồm Hong Kong, Tây Tạng, Tân Cương và Đài Loan (vốn được ĐCST xem như một “tỉnh nổi loạn” của mình) – là lợi ích cốt lõi của Đảng Cộng Sản Tàu.

Sự kết hợp giữa kinh tế và an ninh quốc gia

Quy mô và tầm quan trọng kinh tế của Trung Cộng vượt xa Liên Xô thời Chiến Tranh Lạnh – vốn chỉ bằng 1/4 quy mô của Hoa Kỳ. Theo tính toán của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), GDP của Trung Cộng đã vào khoảng 4 nghìn tỷ USD tính theo sức mua tương đương so với của Mỹ.

Về mặt thị trường, GDP của Trung Cộng bằng 2/3 của Hoa Kỳ, và một số nhà kinh tế kỳ vọng nó sẽ vượt qua Hoa Kỳ vào cuối thập niên này. Sức mạnh kinh tế của Trung Cộng chắc chắn là nền tảng cho tham vọng toàn cầu của nhà cầm quyền Bắc Kinh.

Trung Cộng là quốc gia mới nổi duy nhất đã nâng tỷ trọng đáng kể trong sản lượng thế giới – từ khoảng 3.5% năm 2000 lên gần 18% vào năm 2020 (khoảng 14.8 nghìn tỷ đô-la Mỹ). Mức GDP tăng có nghĩa là chi tiêu quân sự hiện tại của Trung Cộng chỉ dưới 2% GDP.

Hiện tại, sức mạnh kinh tế ngày càng tăng của Trung Cộng trong nền kinh tế thế giới – đã thúc đẩy các vấn đề kinh tế trở thành trung tâm của địa chính trị. Nhà tư tưởng người Mỹ Edward Luttwak đã từng ám chỉ các tranh chấp thương mại của Mỹ với châu Âu và Nhật Bản vào những năm 1970 như là “logic của xung đột trong ‘ngôn ngữ thương mại’”.

“Ngôn ngữ thương mại” này ngày nay đã quá rộng và bao trùm mọi thứ, từ kiểm soát xuất khẩu và giám sát chặt chẽ đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, đến danh sách thực thể – cấm các công ty mua bán một số sản phẩm nhất định. Hơn nữa, các tranh chấp về các chính sách công nghiệp và quản trị doanh nghiệp; các tiêu chuẩn và giao thức khác nhau cho kỹ thuật công nghệ và hệ thống truyền thông hiện đại; việc truy cập internet; thu thập dữ liệu và an ninh mạng… đều là những vấn đề quan tâm trong cuộc cạnh tranh kinh tế Mỹ-Trung hiện nay.

Chính phủ Hoa Kỳ đã sử dụng danh sách thực thể hơn 300 tổ chức của Trung Cộng – để hạn chế hoặc cấm bán cho các công ty này một số loại chất bán dẫn (nếu không có giấy phép), đặc biệt đối với những công ty có liên hệ với Quân Đội Trung Cộng, hoặc liên quan đến vấn đề đàn áp nhân quyền ở Tân Cương. Nhà sản xuất chất bán dẫn lớn nhất và tiên tiến nhất của Trung Cộng SMIC, nhà sản xuất máy bay không người lái DJI, và hàng chục công ty và trường đại học khác của Trung Cộng đã bị ảnh hưởng, bao gồm cả các công ty xây dựng quân sự hóa ở các đảo tranh chấp ở Biển Đông.

Hơn nữa, gần đây có báo cáo rằng Trung Cộng đang xem xét kiểm soát xuất khẩu đối với kim loại đất hiếm – nước này kiểm soát 80% nguồn cung của thế giới. Các giới chức Mỹ đang xem xét liệu các hạn chế như vậy có thể ảnh hưởng đến ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ ra sao? đặc biệt đối với việc sản xuất và bảo trì máy bay chiến đấu F-35 và các loại vũ khí tinh vi khác.

Tuy nhiên, Trung Cộng có thể chiếm phần lớn sản lượng kim loại đất hiếm, nhưng nước này chỉ chiếm 37% trữ lượng toàn cầu. Hoa Kỳ có trữ lượng đất hiếm của riêng mình, cũng như Canada, Ấn Độ, Nam Phi, Nhật Bản và Brazil. Nhưng vì chi phí bảo vệ môi trường để khai thác chúng là đắt đỏ, do đó nhiều quốc gia thích mua rẻ hơn ở Trung Cộng.

Trung Cộng đã cấm xuất khẩu đất hiếm sang Nhật Bản vào năm 2010 vì liên quan đến các đảo tranh chấp, nhưng Tokyo đã có thể nhanh chóng thiết lập lại chuỗi cung ứng mới, vô hiệu hóa lệnh cấm.

Đồng đô-la Mỹ ‘quyền lực’

Đồng Nhân Dân Tệ của Trung Cộng

Hệ thống tài chính đô-la Mỹ là một vấn đề lớn trong chính trị. Thật vậy, quyền lực tài chính và quyền lực chính trị gắn bó với nhau – có ý nghĩa quan trọng đối với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có lợi thế lớn khi có đồng đô-la Mỹ là đồng tiền dự trữ chính trên thế giới, cho phép Washington sử dụng đồng đô-la Mỹ như đòn bẩy kinh tế và áp dụng các biện pháp trừng phạt trong các giao dịch tài chính quốc tế.

Nhà kinh tế học người Mỹ, Joseph Schumpeter đã từng viết: “Hệ thống tiền tệ của một dân tộc phản ánh tất cả những gì mà dân chúng muốn, làm, chịu đựng và… có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động kinh tế và vận mệnh của một dân tộc nói chung”.

Đồng đô-la Mỹ (USD) được coi là cốt lõi trong hệ thống lưu chuyển tài chính toàn cầu, việc Mỹ nắm trong tay hệ thống thanh toán USD chính là công cụ trừng phạt khiến nhiều đối thủ phải e sợ. 

Do do, có thể hiểu tại sao Trung Cộng cũng nhìn nó theo cách này, bởi vì một hệ thống dựa trên đồng Nhân Dân Tệ sẽ mang lại vị thế và ảnh hưởng cho ĐCST. Trung Cộng hiện không có lựa chọn nào khác ngoài việc sử dụng đồng đô-la Mỹ cho phần lớn các giao dịch thương mại và đầu tư của mình, nhưng họ không muốn tuân theo một hệ thống tiền tệ do Mỹ kiểm soát. Vì thế, luận điệu của Bắc Kinh là tránh xa hệ thống lấy đồng đô-la Mỹ làm trung tâm.

Dưới sự chỉ đạo của Quốc Vụ Viện Trung Cộng, Ngân hàng Nhân dân Trung Cộng, các ngân hàng Trung Cộng đã bắt tay vào một chiến dịch quan trọng để quốc tế hóa đồng Nhân Dân Tệ  (nghĩa đen là “tiền của nhân dân”), hay nói một cách thông tục là “đồng bạc đỏ”. Đó là một tham vọng dữ dội nhưng không thực tế. 

Mặc dù Bắc Kinh đang mở cửa một cách có chọn lọc cho các công ty tài chính của Mỹ – để tiếp cận với đô-la Mỹ và đánh cắp bí quyết của Mỹ, sự tách biệt tài chính đang diễn ra theo một số cách, trong khi sự hội nhập của thị trường vốn Mỹ và Trung Cộng đang được giám sát chặt chẽ.

Các biện pháp trừng phạt tài chính đã được Washington thực hiện đối với các giới chức và công ty Trung Cộng, các quỹ hưu trí liên bang bị cấm đầu tư vào cổ phiếu Trung Cộng. Chính quyền Trump đã ký một lệnh hành pháp cấm các nhà đầu tư của Hoa Kỳ bỏ vốn vào 31 công ty Trung Cộng có liên quan đến qau6n đội Trung Cộng, và hơn 200 công ty Trung Cộng được niêm yết trên các sàn giao dịch Hoa Kỳ – buộc các công ty này phải tuân thủ các tiêu chuẩn kế toán của Hoa Kỳ hoặc sẽ bị hủy niêm yết.

Washington thời Trump đã thiết lập một cơ sở hạ tầng để giám sát sự tách rời kinh tế với Bắc Kinh. Cục Công nghiệp và An ninh của Bộ Thương mại – cơ quan giám sát kỹ thuật công nghệ và kiểm soát xuất khẩu – đóng vai trò quan trọng trong quá trình này. Văn phòng Kiểm soát Tài sản Nước ngoài của Bộ Tài chính thực hiện các biện pháp trừng phạt, bao gồm với cả các cá nhân và tổ chức liên quan đến vấn đề đàn áp nhân quyền ở Tân Cương và đàn áp tự do ở Hong Kong.

Giờ đây, theo Đạo luật Hiện đại hóa Rà soát Rủi ro Đầu tư Nước ngoài, Washington sẽ xem xét một loạt các thương vụ, đặc biệt là liên quan đến kỹ thuật công nghệ cao. Cuối cùng, Bộ phận An ninh Quốc gia của Bộ Tư pháp cho phép truy tố hình sự trong trường hợp trộm cắp bí mật thương mại và sở hữu trí tuệ.

Nhà cấm quyền Trung Cộng vẫn nắm giữ ít nhất 1 nghìn tỷ USD tài sản tài chính của Mỹ, và có thể có nhiều tài sản hơn không được ghi nhận chính thức và được nắm giữ tại các trung tâm tài chính nước ngoài. Rất may, đây sẽ là một vũ khí – mà nếu Bắc Kinh sử dụng thì thật là ngu ngốc. Việc bán các tài sản này ở Mỹ sẽ gây ra những tổn thất đáng kinh ngạc, ảnh hưởng trực tiếp đến Trung Cộng và gây phản cảm với Washington.

Mặc dù đôi khi người ta cho rằng Trung Cộng nắm giữ đòn bẩy đối với Hoa Kỳ nhờ quyền sở hữu chứng khoán của Hoa Kỳ, thực tế là Trung Cộng đã phải tăng việc nắm giữ chứng khoán kho bạc của mình để có thặng dư cán cân thanh toán – dấu hiệu này sẽ không tồn tại lâu được.

Bắc Kinh không thể quốc tế hóa đồng Nhân Dân Tệ một cách nghiêm túc hoặc thúc đẩy việc trở thành đồng tiền dự trữ toàn cầu, bởi vì nó không cho phép hai cơ chế duy nhất có thể mang lại điều này: điều hành thâm hụt cán cân thanh toán, hoặc cho phép dịch chuyển vốn ra bên ngoài một cách cởi mở và tự do.

Hơn nữa, Trung Cộng cũng là một phần của tổ chức tài chính có trụ sở tại Bỉ có tên là Hiệp hội Viễn thông Tài chính Liên ngân hàng Toàn cầu (SWIFT) – với 11,000 công ty tài chính tại hơn 200 quốc gia nhận thanh toán để giải quyết khoảng 5 nghìn tỷ USD giao dịch mỗi ngày. Trong đó, 3/4 các khoản thanh toán được giải quyết bằng đồng đô-la Mỹ và euro, trong khi đồng Nhân Dân Tệ chiếm khoảng 1.5% đến 2%.

Hoa Kỳ có quyền loại trừ những người tham gia khỏi hệ thống này, chỉ bằng cách từ chối quyền truy cập vào thanh toán bù trừ đô-la Mỹ trong các ngân hàng của Hoa Kỳ. Trung Cộng đang cố gắng phát triển phiên bản riêng của sàn giao dịch này, nhưng ít có hiệu quả.

Họ cũng mong đợi sự tiến bộ trong việc phát triển một loại tiền kỹ thuật số (bitcoin là một) để có thể gạt đồng đô-la Mỹ sang một bên, nhưng điều này cũng khó xảy ra, vì các đồng tiền dự trữ không phụ thuộc quá nhiều vào kỹ thuật công nghệ, mà là sự cởi mở, khả năng chuyển đổi, tính minh bạch, pháp quyền và quy định đáng tin cậy.

Hệ thống tài chính toàn cầu dựa trên đồng đô-la Mỹ sẽ tiếp tục chiếm ưu thế trong tương lai gần.

Vũ Hán không phải là Chernobyl của Trung Cộng

Cách đây hơn một năm, một số nhà phân tích cho rằng Trung Cộng đang trải qua thời khắc “Chernobyl” (vụ tai nạn hạt nhân của Nga trầm trọng nhất trong lịch sử năng lượng hạt nhân) – với đại dịch virus Vũ Hán kinh hoàng ở Trung Cộng. Theo ước tính của các nhà dự báo khu vực tư nhân, khi hoạt động kinh tế sụp đổ và tỷ lệ thất nghiệp tăng lên hơn 20%, Tập Cận Bình được cho là đang đối diện với thách thức lớn nhất kể từ khi lên nắm quyền vào năm 2012, gây nguy hiểm cho quyền lực của ông, tính hợp pháp và tham vọng dẫn đầu toàn cầu của chính quyền này. Tuy nhiên, Chernobyl Trung Cộng không xảy ra.

Nhà cầm quyền Trung Cộng đã cố gắng kiểm soát đại dịch, cho phép nền kinh tế quay trở lại bằng sự “bất đối xứng” – phụ thuộc vào tăng trưởng tín dụng và chi tiêu cơ sở hạ tầng, nhưng chi tiêu tiêu dùng lại rất yếu. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế trở lại đã giúp Trung Cộng “tự hào” trong tình hình kinh tế toàn cầu suy giảm, và cung cấp một tình hình thuận lợi cho lễ kỷ niệm 100 năm của ĐCST.

Năm nay thực sự sẽ là một năm bận rộn đối với Tập Cận Bình. Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 (2021 đến 2025) của ĐCST sẽ ưu tiên hàng đầu chiến lược về khoa học và kỹ thuật công nghệ do nhà nước lãnh đạo – dự kiến sẽ được trao cho 1.4 nghìn tỷ USD – được thiết kế để Trung Cộng tự chủ và dẫn đầu toàn cầu về kỹ thuật công nghệ tiên tiến.

Theo các nhà hoạch định Trung Cộng, nước này sẽ trở thành một “nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở trình độ cao” vào giữa thế kỷ này, hay nói cách khác là để cạnh tranh hoặc vượt qua Hoa Kỳ với tư cách là cường quốc thống trị toàn cầu.

Các mục tiêu kinh tế và kỹ thuật công nghệ của Trung Cộng là đầy tham vọng, nhưng không có nghĩa là tất cả đều có thể thành hiện thực. Như Yogi Berra đã có câu châm biếm nổi tiếng: “Tương lai không như trước đây”. Nói cách khác, những điều đã làm trong quá khứ, như chuyển công nhân từ trang trại đến nhà máy, hoặc việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, sẽ không thể lặp lại.

Dưới thời Tập, sự “nhấn mạnh” trở lại đối với các doanh nghiệp nhà nước và vai trò của các tổ chức ĐCST trong nền kinh tế và trong các công ty – đã gạt các doanh nghiệp tư nhân sang một bên – vốn là xương sống của sự bùng nổ kinh tế Trung Cộng.

Như Tập đã tuyên bố: “Chính phủ, quân đội, xã hội và trường học, bắc, nam, đông và tây – ĐCST lãnh đạo tất cả”.

Hơn nữa, đã rất lâu Trung Cộng mới phải đối diện với một môi trường bên ngoài thù địch như bây giờ. Trung Cộng là nước hưởng lợi lớn từ quá trình toàn cầu hóa, nhưng nó sẽ hoạt động như thế nào khi một phần của môi trường này trở nên bất lợi?

Triển vọng kinh tế không sáng sủa như quảng bá

Nhà phân tích Andrew Scobell lập luận rằng các nhà lãnh đạo Trung Cộng giỏi chỉ ra các cuộc khủng hoảng, tuy nhiên ít có khả năng thực sự giải quyết chúng. Ông cho rằng cần phải phân tích rõ ràng về Trung Cộng để tránh bị lôi kéo vào một loại tâm lý “vây hãm một mặt”.

Ví dụ, đằng sau bề mặt “đôi bên cùng có lợi” và “sự trỗi dậy không thể tránh khỏi” của Trung Cộng – những thuật ngữ xuất hiện thường xuyên trong cách nói của các nhà lãnh đạo Trung Cộng – ông nhận thấy sự bất an, bất ổn về chính trị; thậm chí là những câu hỏi quan trọng về tuổi thọ và sự kế vị của Tập.

Đại dịch và hành vi của Trung Cộng từ khi phát hiện ra những trường hợp đầu tiên của virus Vũ Hán vào tháng 11 năm 2019 đến thời điểm hiện tại, cho thấy một mâu thuẫn thú vị. Sự kiểm soát độc đoán, yêu cầu tuân thủ và ngăn chặn tranh luận – chắc chắn đã giúp Trung Cộng quản lý một cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng. Nhưng chúng cũng tạo thành những lỗ hổng đáng kể trong móc xích phát triển kinh tế cho quốc gia này.

Trong vòng một thế kỷ qua, đã có ba trường hợp đáng lưu ý: Đức từ những năm 1930 đến 1941, Liên Xô vào cuối những năm 1950 và 1960, và Nhật Bản vào những năm 1980. Mặc dù hoàn cảnh khác nhau đáng kể, nhưng mỗi quốc gia được đặc trưng bởi một mô hình phát triển kinh tế thiếu sót – với sự kết hợp của một số chính phủ độc tài, sự thống trị của một đảng độc tôn và các thể chế kinh tế, xã hội và luật pháp yếu kém.

Như nhà kinh tế hàng đầu Trung Cộng Michael Pettis đã cho biết rằng, các chính phủ độc tài rất giỏi trong việc xây dựng các nhà vô địch quốc gia để ngăn chặn sự cạnh tranh ở nước ngoài, nhưng không thúc đẩy sự cạnh tranh và năng động ở trong nước. Họ rất giỏi trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, nhưng không chú ý đến chất lượng hoặc hiệu quả kinh tế thương mại. Họ nhấn mạnh đến thành tựu khoa học và kỹ thuật công nghệ, nhưng lại bỏ qua điều quan trọng là ứng dụng thương mại, xây dựng thương hiệu và sự lan tỏa của chúng vào nền kinh tế. Điều đó đòi hỏi một hệ thống tài chính hiệu quả và việc phân bổ vốn tốt.

Tất cả những điều này cần các thể chế mạnh mẽ, bao trùm và thích ứng (pháp lý, cạnh tranh, quy định, giáo dục…) cho phép xã hội khai thác giá trị từ đầu tư và người lao động – để hoạt động ở mức hiệu quả và tăng năng suất cao hơn.

Trong khi các mục tiêu của Trung Cộng là tăng trưởng khoảng 5% trong 20 đến 30 năm tới, tôi nghĩ sẽ may mắn nếu đạt được hơn một nửa trong số đó, và điều này gây rủi ro cho nội bộ nền kinh tế cũng như trong việc tạo việc làm – cả hai điều này là quan trọng về mặt chính trị. Ngoài ra, điều này sẽ có tác động rất lớn đến ngân sách quốc phòng và thế trận quân sự của Trung Cộng.

Như Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã cho biết, Trung Cộng đặt mục tiêu có một quân đội ngang bằng hoặc tốt hơn Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ này, bất chấp nhiều lỗ hổng và thiếu sót có thể được chỉ ra. Mục tiêu đó trở nên khó đạt được với tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hơn, nhưng cũng dễ hình dung tại sao Trung Cộng đang đấu tranh giành nguồn tài nguyên “một cách tàn nhẫn hơn nhiều” nếu miếng bánh kinh tế tăng trưởng chậm hơn.

Trung Cộng đang phải đối diện với một núi nợ đáng kể, mà việc phụ thuộc vào tạo tín dụng đang kéo dài và điều này sẽ dẫn đến tăng trưởng thấp hơn trong nhiều năm, trong khi nước này cố gắng thu hồi vốn phân bổ sai. Định nghĩa rộng hơn, nợ/GDP hiện đã hơn 300%, phần lớn do các doanh nghiệp nhà nước và chính quyền địa phương gánh chịu, nhưng nợ gia đình đang tăng lên, hiện đang cao hơn tỷ trọng thu nhập khả dụng so với ở Hoa Kỳ – điều này nhanh chóng cũng trở thành một hạn chế đối với nền kinh tế.

Nợ xấu, đầu tư phi thương mại và đầu tư “quá mức độ” vào cơ sở hạ tầng, các ngân hàng dễ bị tổn thương – tất cả sẽ không biến mất, và sẽ phải trả bằng cách nào đó trong những năm tới.

Một hạn chế tăng trưởng nữa là tốc độ già hóa nhanh chóng, Trung Cộng là quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất trên thế giới. Theo dữ liệu của Ban Dân số Liên Hợp Quốc, Trung Cộng sẽ phải phụ thuộc nhiều vào công dân lớn tuổi; dân số trong độ tuổi lao động giảm vào năm 2050 và một hệ thống an sinh xã hội sơ sài không đáp ứng được nhiệm vụ chăm sóc dân số già.

Trung Cộng cũng phải đối diện với viễn cảnh mà các nhà kinh tế gọi là “bẫy thu nhập trung bình”. Điều đó có nghĩa là trong khi GDP vẫn có thể tăng trưởng, thu nhập bình quân đầu người có thể bị mắc kẹt ở mức thấp hơn nhiều so với mức đạt được của một nhóm các nền kinh tế tiên tiến.

Đây là hiện tượng mà đa số các nước mới nổi lên và đang phát triển phải trải qua kể từ những năm 1960, trong đó tốc độ tăng trưởng nhanh chóng giảm dần khi các nước trở thành “nước có thu nhập trung bình” – phần lớn là do không phát triển được các thể chế mạnh mẽ cần thiết để duy trì sự phát triển, một khi việc khai thác lao động thể chất và vốn đã cạn kiệt. Trung Cộng hiện đang ở thời điểm này.

Không ai biết chắc liệu một nhà nước độc tài – chuyên theo dõi và giám sát dữ liệu – có thể thực hiện các mục tiêu kỹ thuật công nghệ của mình hay không, nhưng chúng ta biết Trung Cộng đang tập trung vào kỹ thuật công nghệ tối tân như thể đó là việc phát triển bom nguyên tử. Điều đó nói lên rằng, kinh nghiệm còn yếu kém của Trung Cộng đối với chất bán dẫn – trung tâm của kỹ thuật công nghệ tối tân; và việc nước này tiếp tục phụ thuộc vào nhập khẩu, với giá trị nhập khẩu vượt quá giá trị của dầu thô – những điều này là rất nghiêm trọng.

Hơn 50 tỷ USD trợ cấp cho phát triển kỹ thuật công nghệ – vẫn chưa cho phép Trung Cộng có thể sánh ngang với kinh nghiệm, tài năng và bí quyết mà Hoa Kỳ, Đài Loan, Đức, Hàn Quốc và Nhật Bản vẫn vượt trội.

Phần kết luận

Trong nhiều năm, Trung Cộng đã sử dụng kết hợp các chính sách do nhà nước chỉ đạo và các cơ chế thị trường được lựa chọn – để xây dựng một nền tảng kinh tế cho phép nước này củng cố an ninh quốc gia trong nước; và mở rộng địa chính trị ra nước ngoài trong thập niên qua. Các giới chức ở Washington ngày càng coi đây là mối đe dọa đối với các lợi ích sống còn của Mỹ.

Các chính sách kinh tế, công nghiệp và kỹ thuật công nghệ của Trung Cộng luôn thuộc loại “Trung Cộng trên hết”, được thiết kế để hỗ trợ các doanh nghiệp và nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, phát triển kinh tế không phải là một con đường tuyến tính, và cấu trúc quyền lực tập trung cao độ của Trung Cộng hiện đang phải đối diện với những cơn bão kinh tế ngày càng gia tăng.

Sự phụ thuộc quá mức vào các cá nhân chủ chốt và việc ra quyết định từ trên xuống, thay vì cấu trúc thể chế và thị trường – đang đe dọa nền kinh tế này. Nói tóm lại, an ninh kinh tế của Trung Cộng không được đảm bảo.

Hơn nữa, như chuyên gia Trung Cộng Rana Mitter đã cho biết, sự hiện diện an ninh ngày càng tăng của Trung Cộng ở nước ngoài, được thúc đẩy bởi hoạt động hậu cần kinh tế, thương mại, vận chuyển và chuỗi cung ứng… cũng đang có những tác động tiêu cực. Thật vậy, chủ nghĩa độc tài, chính sách đàn áp và ngoại giao cưỡng bức của Trung Cộng sau đại dịch – đã góp phần gây ra phản ứng dữ dội ngày càng tăng về sự phẫn nộ và nghi ngờ – không chỉ giữa các nền kinh tế thị trường phát triển mà còn cả các quốc gia trong Sáng kiến Vành đai và Con đường.

Hoa Kỳ nên lưu ý vì nhiều quốc gia sẽ cố gắng lôi kéo chính quyền Biden theo những cách khác nhau – có thể vô tình gây phương hại đến kinh tế hoặc an ninh quốc gia. Tăng cường các thỏa thuận kinh tế và thương mại với các nước khác, đặc biệt là ở châu Á, được coi là một mục tiêu quan trọng.

Washington nên cẩn thận để không làm tổn hại quá nhiều đến các lợi ích kinh tế trong nước, vì về lâu dài, những lợi ích này là cốt lõi của an ninh quốc gia Mỹ và với vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ. An ninh kinh tế của Mỹ bắt nguồn từ sức mạnh, cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính của chính nó, cũng như sự năng động của các doanh nghiệp và văn hóa của Mỹ.

Nói một cách khác, về sự cạnh tranh với Trung Cộng, Bộ Quốc phòng, và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cần tập trung vào sức mạnh của Detroit (công nghiệp Mỹ), Disney (văn hóa Mỹ), và đồng đô-la Mỹ (tài chính Mỹ).

https://www.vanews.org/2021/03/toan-canh-cuoc-au-kinh-te-ninh-quoc-gia.html
Economics, National Security, and the Competition with China
George Magnus  – March 3, 2021

Tác giả: George Magnus, trước đây là nhà kinh tế trưởng của UBS, là cộng sự nghiên cứu tại Trung tâm Trung Cộng của Đại học Oxford và tại Trường Nghiên cứu Phương Đông và Châu Phi ở London. Ông là tác giả của “Cờ Đỏ: Tại sao chính quyền Trung Cộng của Tập Cận Bình đang trong cảnh hiểm nguy”.

Lê Minh – Tâm An Lược dịch

09/3/2021