TÂM BÚT VỀ MẸ (VHLA)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail
Hôm qua 27/01/25 khá nhiều hội viên Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Giantham dự tang lễ của thân mẫu nhà thơ emcee Mộng Thủy tại giáo đường Saint Barbara, ở Santa Ana, tôi tình cờ ngồi gần nhà văn Vi Khiêm Nguyễn Văn Liêm. Tôi chạnh nhớ buổi lễ tiễn dưa thân mẫu của anh khi của cụ bà ra di ở tuổi hoàng hạc dại thọ 107 niên kỷ. Tôi có viết bài phân ưu, Nhà văn Khánh Lan cho lưu trữ trên website của nhóm như sau:
 
Dựa theo bài tường trình của Khánh Lan về ngày lễ cầu nguyện cho Cụ Bà Ana Nguyễn Thị Tịnh, đăng ngày 27 tháng 03, 2022 trên Website của Nhân Văn Nghệ Thuật.com “Buổi lễ cầu nguyện và tiễn đưa cụ bà Ana Nguyễn Thị Tịnh, thân mẫu của NV Nguyễn Văn Liêm về nơi an nghỉ cuối cùng diễn ra long trọng và cảm động lúc 10:45 sáng tại Trung Tâm Công Giáo thuộc thành phố Santa Ana. Khoảng 10:45 sáng, những bài thánh ca nhẹ nhàng, êm ái vang lên từ góc bên phải của nhà thờ, bởi ca đoàn của Trung Tâm Công Giáo, mở đầu cho buổi lễ hát tiễn đưa bước chân người con Chúa trở về cùng Ngài, cũng như để an ủi và xoa dịu nỗi đau mất Mẹ của những đứa con của Mẹ còn ở lại trần gian.”
 
Lại cũng trong bài tường trình buổi lễ cầu nguyện hôm Thứ Bảy ngày 26, Khánh Lan viết: “Trong bài giảng Cha chủ sự nói: Chúa đã đón Cụ Bà Ana Nguyễn Thị Tịnh trở về Trời và ở bên cạnh Ngài. Cụ bà là một cây tốt mà Chúa đã tạo dựng ra, một cây có giống tốt nên đã cho ra những trái tốt đẹp như là anh Nguyễn Văn Liêm, một người đạo đức, khiêm nhường, một con chiên trung thành và tôn kính Thiên Chúa, một giáo dân đã làm nhiều việc công sức cho xứ đạo…”
 
Lắng nghe bài giảng của Cha chủ sự trong Thánh Lễ, tôi thầm nghĩ, trong cuộc sống, con người đầu tư vào những hành vi bác ái, hy sinh vì tha nhân, gìn giữ nhân tính đạo đức. Vốn là người công giáo luôn vâng lời Chúa,và với đức tin tôn giáo vững mạnh, đã giúp đứa con chiên của Chúa sẵn sàng phục vụ những công tác tốt lành thánh thiện. Những tấm gương sáng, đức tính tốt ấy khiến người con Thiên Chúa dấn thân phụng sự xã hội và hun đúc tâm hồn, chuẩn bị con em mình thành người hữu ích. Vì thế chúng ta thường nghe câu nói: “Cây tốt sinh trái ngọt“. Cho nên tất cả mọi việc làm thánh thiện đều quy về đời sống gia đình, qui vào đời sống của ông bà, cha mẹ, anh chị em và của mọi người chúng ta trong cuộc sống.
 
Nhà văn Vi Khiêm Nguyễn Văn Liêm cám ơn quan khách tham dự Thánh Lễ, ông nói: “19 năm trước, cha tôi đã mất cũng trong khoảng tuổi này, ông đã sống qua ba thế kỷ: Cuối thế kỷ 19, trọn thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 và nay Mẹ tôi ra đi ở tuổi 107, thì tôi còn đòi hỏi gì ở Thiên Chúa nữa. Nhưng có còn gì đau đớn cho bằng khi Mẹ tôi qua đời, mà tôi chẳng được ở gần người, để nghe những lời trăn trối của người lần cuối.” (Dựa theo bài tường trình của Khánh Lan).
 
Tôi(VHLA) nhớ trong sách kinh có các ý tưởng tâm dạo như sau:
 
Bài đọc 1: Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan (Kn 4:7-15) (7) Người công chính dù có chết non, cũng vẫn được an nghỉ. (8) Vì tuổi thọ đáng kính không phải bởi sống lâu, cũng không do số tuổi. (9) Ðối với con người, sự khôn ngoan còn quý hơn tóc bạc, sống không tì ố đã là sống thọ. (10) Người công chính đẹp lòng Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa yêu thương.
 
Và tiếp, Bài đọc 2: Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan (Kn 5:15-16) (15) Người công chính sẽ sống muôn đời. Họ sẽ được Ðức Chúa ân thưởng và được Ðấng Tối Cao hằng quan tâm săn sóc. Tôi cũng nhờ bài thánh ca Mẹ Về Trời, của LM. Phanxicô Nguyễn Sang.
 
“ĐK: Muôn Thiên Thần cánh trắng, hôm nay đưa Mẹ về trời. Sao sáng ngời trên đầu, Mẹ bay lên, Mẹ bay lên. Áo Mẹ rực rỡ ánh mặt trời sáng tươi.
 
Trong ngàn muôn đóa hoa, xinh tươi trong vườn Thiên Cung. Mẹ sáng lấp lánh là nụ hoa Trinh Vương. Ngát hương ngây ngất thiên đường. Mẹ sáng lấp lánh là nụ hoa yêu thương, ngát hương cho người muôn phương. Con nhìn theo đám mây, mây đưa Mẹ về Thiên Cung. Lòng muốn chấp cánh cùng Mẹ bay lên cao Ước ao trông thấy Quê Trời. Lòng muốn chấp cánh cùng Mẹ bay lên mây. Sống vui bên Mẹ từ đây.
Như mặt trời sáng tươi, trên cao trông nhìn muôn nơi. Mẹ hãy chiếu sáng để đời con yên vui. Bước qua gian khó cuộc đời. Mẹ hãy chiếu sáng để lòng con thanh cao, bước lên Thiên Đàng mai sau. Và bài thánh ca khác “Mẹ Là Mùa Xuân,(tác giả nhạc sĩ Vũ Đình Ân):
“ĐK. Mẹ là mùa xuân bất tận, Mẹ là mùa xuân yêu kiều. Mẹ là mùa xuân yêu thương, Mẹ là mùa xuân an bình.
 
Cúi xin Mẹ cho đoàn con luôn tin yêu. Mẹ là mùa xuân trên toàn thế giới ban đầy hồng ân, cho muôn nơi luôn tin yêu danh Mẹ là mùa xuân.
Khấn xin Mẹ đưa đoàn con qua cơn mê và dìu đoàn con đi về bên Chúa mang đầy niềm tin, tôn vinh Cha qua muôn nơi ca tụng trọn đời con.”
 
Trong đoạn nhớ về người Mẹ khuất bóng, Vi Khiêm Nguyễn Văn Liêm trích câu thơ kể chuyện “Đổi Cả Thiên Thu Lấy Tiếng Mẹ Cười” của thi sĩ Trần Trung Đạo, xin trích đoạn như sau:
 
“Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau
Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.”
 
Thật vậy, Trần Trung Đạo cho là hình ảnh người mẹ là một kỳ quan tuyệt vời và vĩ đại nhất. Tình thương của người mẹ bao la như biển Thái Bình và vô biên như không gian vũ trụ dành cho con cái. Ngôn ngữ của mẹ là tiếng nói từ trái tim, yêu thương và dịu dàng dành cho con cái.
 
Những người bạn khác của Vi Khiêm Nguyễn Văn Liêm và của tôi như hai nhà văn Ngọc Cường và Quyên Di. Trong tác phẩm Ba Chị Em, NV Ngọc Cường mất mẹ khi anh vừa tròn 4 tháng tuổi nên anh đã gởi gấm hình ảnh bao la của người Mẹ qua người chị ruột. Phần Quyên Di, anh đã khóc mẹ qua những vần thơ, ví dụ như trong bài bài “Giỗ Mẹ“.
 
“Sáu năm trời qua rất chóng
Mẹ đã từ giã thế gian
Tưởng chừng như là giấc mộng
Nghĩ lại còn thấy bàng hoàng.
Nhớ những ngày xưa thơ ấu
Thủ thỉ có mẹ và con
Một thời tuổi xanh yêu dấu…”
“Hai mươi năm trời bên Mẹ
Lại là đứa bé dại khờ
Rồi Mẹ ra đi rất nhẹ
Êm đềm như một vần thơ.
Hôm nay ngồi bên ảnh Mẹ
Rưng rưng khoé mắt rưng rưng
Con vẫn là thằng con bé….”
Quyên Di (2017)
 
Ngày Vi Khiêm mất mẹ tôi chạnh nhớ ngày mẹ tôi ra đi, Quyên Di đến chia buồn qua những câu thơ (*) sau đây.
 
Mẹ đã cưỡi hạc quy tiên, đến nơi xa miên viễn
Như ráng chiều tan nhẹ buổi hoàng hôn
Trời sụp tối mau, ngày sẽ vào đêm
Con thương Mẹ, khóc thầm trong bóng tối”,…
——————————————————————
(* )Ngày thân mẫu Anh Việt Hải Quy Tiên), nhà văn Quyên Di đã tặng tôi thơ điếu, anh cảm tác như vừa viết thay cho tôi. Cảm ơn anh Quyên Di.
 
Những lời Anh muốn thưa cùng Mẹ.
Nhưng vì quá đau lòng, Anh nghẹn ngào không thể
Thốt nên lời khi xúc động dâng trào
Cầu xin Bà, giờ ở chốn rất cao
Phù hộ cho anh “cả một đời làm ích.”
Xin Thành Kính Phân Ưu.
 
Tôi viết cho Vi Khiêm thay cho những bạn bè: Trần Trung Đạo, Ngọc Cường, Quyên Di, Thuỵ Lan, Khánh Lan, Phạm Hồng Thái, Mộng Thuỷ, Kiều My, Nguyễn Quang… chia sẻ những tâm tình, những tâm tư về mẹ, cảm thông nhau qua những niềm tin tôn giáo.
 
Xin gửi nhà văn Vi Khiêm Nguyễn Văn Liêm những âm vang tiễn mẹ: “Muôn Thiên Thần cánh trắng, hôm nay đưa Mẹ về trời” ,và “Mẹ là mùa xuân bất tận, Mẹ là mùa xuân yêu kiều. Mẹ là mùa xuân yêu thương, Mẹ là mùa xuân an bình”.
 
(theo Trần Việt Hải, Los Angeles).
 
Tôi xin chia sẻ tâm tư cùng bạn bè như Mộng Thủy, Khánh Lan và Kiều My khi lòng mình dâng lên cảm giác u buồn, trống vắng khi hai cụ song thâm của tôi ra đi…
 
Ngày 5 tháng 7, 2015 là ngày tôi mất mẹ, mấy hôm cuối cùng đi thăm mẹ tôi thắm thía câu ca dao:
 
Mẹ già như chuối chín cây,
Gió đưa mẹ rụng con rày mồ côi.
 
Và rồi gió đưa mẹ rụng thật, tôi cảm nhận một nghịch cảnh lo sợ mà tôi phải đối diện từ lâu, nhưng khó cưỡng lại bởi vì luật tạo hóa của diễn trình Sinh Bịnh Lão Tữ, mà tiến trình Bịnh Tử khiến con người vất vả. Tôi thấy và hiểu như vậy. Dù rằng lời cầu xin ngày nào trong hồn tôi:
 
Đêm đêm con thắp đèn trời,
Cầu cho Cha Mẹ sống đời với con.
 
Giờ đây cả 2 đấng sinh thành đã bỏ tôi ra đi, lệ lòng ngậm ngùi cho sự cảm nhận tiếc nuối và trống vắng trong hồn tôi,…
(Trần Việt Hải).
————————————————————————————————————————————————————————
Rồi sáng nay, 28/01/25, xem lại bài viết xưa, một bài tâm bút viết về Mẹ của nhà văn Dương Viết Điền…
 
Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào,
Tình Mẹ tha thiết như giòng suối hiền ngọt ngào,
Lời Mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào.
Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng Mẹ yêu.
Dù cho mưa gió không quản thân gầy Mẹ hiền.
Một sương hai nắng cho bạc mái đầu buồn phiền.
Ngày đêm sớm tối vui cùng con nhỏ một niềm.
Tiếng ru êm đềm mẹ hiền năm tháng triền miên. 
 
Nhạc sĩ Y Vân như trên đã rung động con tim mà sáng tác nên bản nhạc “Lòng mẹ” với nội dung và giai điệu thật tuyêt vời: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào. Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng mẹ yêu…”. Vì biết lòng mẹ bao la như biển cả, tình mẹ chan chứa tình thương vô biên nên nhà văn Pháp nổi tiếng là Anatone France đã không ngần ngại hạ bút viết: “Trong thiên  nhiên có rất nhiều cái đẹp, nhưng cái đẹp cao quý nhất là trái tim người mẹ” (Il y a bien des merveilleuses dans la nature, mais la plus précieuse, C’est le coeur d’une mère).
 
Tuy nhiên có nhiều người thương mẹ, nhớ mẹ lúc mẹ đang còn sống. Nhưng vì cuộc sống của mẹ hằng ngày luôn luôn làm việc thiện và trọn đời mẹ đã tỏ ra thương người, hy sinh cho tha nhân và quyết sống môt cuộc sống đầy lòng nhân ái, từ bi. Vì thế, người con nguyện sẽ xuống tóc giữ lời quy y nếu một mai mẹ qua đời. Mấy vần thơ lục bát sau đây của nhà thơ Việt Hải cho ta thấy rõ được những điều nói trên:
 
“Nếu mai mẹ sẽ qua đời
Con xin xuống tóc giữ lời quy y
Mẹ tôi trọn kiếp từ bi
Con quỳ lạy mẹ ra đi yên lòng”.
(Việt Hải – Trong bài “Nhớ mẹ”)
 
——————————————————
Tôi cũng xin gửi hai bạn Ngọc Quỳnh và Mộng Thủy đã chịu tang mẹ gần đây. Hình như văn chương về Mẹ với tôi có chỗ dứng trang trọng trong tôi, xin xem như sau:
 
Ý Nghĩa Ngày Của Mẹ!
(trích doạn bài viết của Khánh Lan về Mẹ)
 
Mẹ là người có thể thay thế bất kỳ ai khác, nhưng không ai có thể thay thế được mẹ. (theo Gaspard Mermillod)
 
Mẹ là món quà yêu thương đặc biệt nhất, mà Thượng Đế ban cho mỗi con người.
-Mẹ là dòng suối dịu hiền, Mẹ là bài hát thần tiên, là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm, khi lạc lối.
 
-Mẹ là tất cả! Mẹ là người có thể thay thế tất cả những ai khác, nhưng không ai có thể thay thế được Mẹ!
 
-Mẹ chăm sóc ta cả cuộc đời, làm những việc cực nhọc nhất, mà không cần trả lương! Mẹ nắm tay những đứa con mình không phải chốc lát, mà giữ trong trái tim suốt cả cuộc đời! cho dù con lớn bao nhiêu tuổi cũng thế!
 
Nên Tình Mẹ Con, Mẫu Tử là một tình cảm vô cùng thiêng liêng, cao quý nhất. Tất cả mọi người mẹ trên cõi đời này, đều thương yêu con của mình, đấy là bản tính, là thiên tính Trời ban cho người phụ nữ. Chính nhờ tình thương của mẹ, mà người con được lớn lên. Tình thương yêu của mẹ, đã giúp cho người con quân bình, thành người, về các phương diện tâm sinh lý. Người Mẹ tuy âm thầm, nhưng có ảnh hưởng rất lớn trong mỗi cuộc đời con người!
 
—————————————-
BẢO VẬT CỦA MẸ
(trích doạn thi ca Mẹ của nhà thơ Kiều My)
 
Mẹ thương con từ trong dạ
….
Mẹ thương con cao ngất trời
Không ngại bước trên đường đời chông gai
Cuộc đời sớm nắng chiều phai
Mong con được hưởng tháng ngày ấm êm
Lời ru mẹ hát êm đềm
Con say giấc ngủ những đêm canh trường
Một đời mẹ mãi yêu thương
Yêu con như nước đại dương tuôn tràn
“Vũ trụ có nhiều kỳ quan
Kỳ quan tim mẹ…vô vàn thương con!”
Jacqueline Kiều My.    
 
—————————————————
Chữ Hiếu trong đạo Công giáo
 
Giáo hội Công giáo bước vào tháng 11 là tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Chuẩn bị cho tháng này, các xứ đạo đã tổ chức sửa sang nghĩa trang, giáo dân thì lo dọn sạch đẹp mộ phần của những người thân trong gia đình. Các linh mục tổ chức tập trung cả xứ dâng lễ tại Đất Thánh, nhắc nhở giáo dân về bổn phận của lòng biết ơn đối với ông bà cha mẹ mình; gia đình tập trung viếng mộ, tặng hoa, cầu nguyện cho người thân đã chết. Họ khuất bóng nhưng vong linh vẫn gần gũi với con cái cháu chắt.
 
Phải yêu thương cha mẹ thật lòng thì mới thực hiện chữ Hiếu được Về chữ Hiếu trong đạo Công giáo, xin nêu lên những điểm này:
Thứ nhứt: Hiếu thảo với cha mẹ là luật của Chúa Trời chứ không chỉ là lời mời gọi tự nguyện. Luật của Chúa là buộc phải giữ và không ai có quyền sửa đổi. Ai là người Công giáo thì đều thuộc 10 giới luật. Ba giới luật đầu là dạy con người phải cư xử với Chúa như thế nào. Bảy giới luật kia là dạy con người phải cư xử với nhau như thế nào. Giới luật đầu tiên của bảy giới luật đó là giới luật thứ tư, thảo kính cha mẹ!
 
Trong đời sống xã hội, chữ Hiếu đối với cha mẹ chỉ là sự mời gọi có tính tự nguyện. Người ta khinh thường những đứa con thờ ơ với cha mẹ mình. Nhưng theo luật của Chúa thì không phải vậy.
 
Thứ hai: Chữ Hiếu với cha mẹ còn đang sống.
Khi dạy giáo lý cho trẻ em, mình dạy các em làm bốn điều này với cha mẹ các em:
 
* Một là phải yêu mến cha mẹ. Mình nói về công lao nhọc nhằn của cha mẹ khi nuôi con lúc còn tấm bé, nói về luật của Chúa, mình trích dẫn ca dao tục ngữ và dạy các em học thuộc lòng… Đối với người lớn mình hay nói câu này: Người ta có thể cho mà không thương, nhưng người ta không thể thương mà không cho. Phải yêu thương cha mẹ thật lòng thì mới thực hiện chữ Hiếu được.
 
* Hai là phải tôn kính cha mẹ. Không được ăn nói hỗn hào với cha mẹ, không được có những cử chỉ xấc láo với cha mẹ, đó là tội. Nhiều người lớn đã làm gương xấu cho con cái khi ăn nói với cha mẹ mình những lời không đàng hoàng. Cha mẹ phải dạy con cái kính trọng ông bà nội ngoại.
 
* Ba là phải vâng lời cha mẹ trong điều đúng. Các bạn trẻ ít chịu vâng lời cha mẹ trong việc đạo đức: Đọc kinh cầu nguyện chung trong gia đình, tham gia sinh hoạt trong giáo xứ, sống đạo theo luật của Chúa… Tuy cha mẹ không hành động gì để phản đối, nhưng cha mẹ rất buồn lòng vì ma quỷ đã lôi kéo con mình xa Chúa. Mình đã từng biết nhiều người trẻ như thế. Cha mẹ hay than thở với mình: “Con nuôi con được mà không dạy nó được, buồn lắm cha!”
 
* Bốn là phải giúp đỡ cha mẹ. Có hai thứ cần giúp đỡ: vật chất và tinh thần. Mình nói chuyện với một vị giám mục hưu. Ngài bảo, cái ăn cũng cần, thuốc men cũng cần, chỗ ở cũng cần, nhưng cần nhứt là người chăm sóc mình biết thông cảm với mình. Đất sinh cỏ, già sinh tật! Mình có một nhóm người tham gia việc từ thiện. Mình luôn dặn họ cách cho quan trọng hơn quà cho. Chuyện thăm viếng là chính, tặng quà là phụ, nhất là đối với người nghèo nhiều mặc cảm. Cắt móng tay, móng chân cho người già, họ thích lắm. Đối với cha mẹ già cũng như vậy thôi!
 
Thứ ba: Chữ Hiếu đối với cha mẹ đã qua đời.
Đạo Công giáo rất phong phú về mối tương quan giữa người sống và người đã chết. Đức tin Kitô giáo dạy: Có hạnh phúc thiên đàng với Chúa, Hội Thánh thông công qua việc cầu nguyện cho người qua đời… Cha mẹ trên thiên đàng cầu cùng Chúa cho con cái ở còn sống ở thế gian, người còn sống ở thế gian dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn trong nơi luyện tội. Thông công là như vậy.
 
Chữ Hiếu trong truyền thống Công giáo
Chữ Tâm (心)
Tâm trong Nho giáo
Tâm trong đạo Phật 11 tới rồi, mong mọi người hãy chăm sóc phần mộ của người thân. Và chúng ta cũng quan tâm tới những ngôi mộ không có thân nhân, các ngôi mộ ở nghĩa trang thai nhi… Một nén nhang để tỏ lòng, làm sạch đẹp một nấm mồ để tỏ lòng… Bảo đảm ta không mất công bao giờ. Người chết linh thiêng hơn người sống. Các thánh trên trời linh thiêng hơn người trần thế vì các ngài gần Chúa.
 
Lm Phêrô Nguyễn Vân Đông, GP Kon Tum.
—————————————–
“Hiếu” Và “Tâm”: Điểm Hội Ngộ Giữa Người Công Giáo Và Tín Đồ Các Tôn Giáo
 
Kitô giáo: Đạo Tâm và Chữ Hiếu (孝)
 
Đạo hiếu trong văn hóa Việt
Nơi các dân tộc Á châu nói chung và nơi người Việt nói riêng, lòng Hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà và cha mẹ luôn được trân trọng và tuân giữ như đòi hỏi căn bản của luật tự nhiên, bất kể họ theo truyền thống tôn giáo Phật, Đạo (Lão), Nho (Khổng) hay Công giáo. Nhiều người còn tự nhận mình theo “đạo Ông Bà” hay Đạo Hiếu, khi họ không thuộc về một đạo nào khác. Đạo làm con có thể được xem như linh đạo của người Việt.
 
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu.
 
Chữ Hiếu đã thấm nhập vào văn hóa Việt và đọng lại trong ca dao tục ngữ cũng như những văn phẩm nổi tiếng. Nguyễn Du (1765-1820), qua hình tượng nàng đạo Kiều trong “Truyện Kiều”, đã làm nổi bật sự hy sinh hạnh phúc cá nhân để làm tròn Hiếu và đặt chữ Hiếu trên cả chữ Tình lẫn chữ Trinh.
 
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn ?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Quyết tình nàng mới hạ tình:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha !
 
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), đã đề cao tinh thần hiếu hạnh vượt trên danh lợi, trong tác phẩm “Lục Vân Tiên”. Lục Vân Tiên trên đường đi thi trạng nguyên, nghe tin mẹ mất, đã quay về chịu tang cho mẹ và ông đã khóc lóc đến mù mắt. Con người đặt đạo Hiếu của người con trên sự nghiệp bản thân. Lòng hiếu kính được thể hiện trong thái độ sống hàng ngày đối với ông bà cha mẹ, khi các ngài còn tại thế, cũng như vào dịp Tân niên, những ngày giỗ kỵ, mùa Vu Lan báo hiếu, nơi nhà Tổ, bàn thờ gia tiên, khi các ngài đã từ trần…
 
Đạo hiếu trong truyền thống Nho giáo
Đối với truyền thống Nho gia, Hiếu đứng đầu sáu đức tính của người quân tử: Hiếu, Đễ, cẩn, tín, thương mọi người, mến bậc nhân. Trong Hiếu kinh, Khổng Tử xem Hiếu là nguồn cội của nhân đức và giáo dục: “Hiếu là gốc của đức, là nguồn của giáo… thân thể tóc da, nhận từ cha mẹ, không dám tổn thương, đó là khởi đầu của hiếu. Lập thân hành đạo, dương danh với hậu thế, để làm rạng rỡ cha mẹ, đó là kết cục của hiếu”. Một cách cụ thể, đức hiếu thảo đòi hỏi:
Tăng Tử hay Tăng Sâm (505-435 TCN), đệ tử của đức Khổng, đã khai triển thêm nội dung của Hiếu: “Hiếu có ba điều: đại hiếu phải tôn thân, sau nữa không làm điếm nhục, sau nữa mới nuôi dưỡng”.
Theo Mạnh tử (372–289), Bất hiếu hữu tam, nghĩa là bất hiếu có ba điều: không con trai nối dòng; không can ngăn cha mẹ khi cần; không làm quan lấy lộc phụng dưỡng.
 
Đạo hiếu trong truyền thống Phật giáo
Trong đạo Phật, Hiếu hạnh là con đường giải thoát của chánh pháp, thực hành hiếu thảo là con đường mà người Phật tử phải theo mới được gọi là tử chân chính. Đó là thiện pháp mà kinh “Nhẫn nhục” đã xác định: “Điều thiện tối cao là chí hiếu, điều ác cực ác là bất hiếu”.Đức Phật từng đề cao đức hiếu thảo, đồng thời kể ra năm bổn phận, trong đó có việc gìn giữ truyền thống của gia đình.
 
Ý nghĩa của mùa Hiếu hạnh và đại lễ Vu Lan của đạo Phật, được tìm thấy trong Kinh Vu-Lan-Bổn, đề cập đến một cách báo hiếu cho thân sinh đã qua đời. 
Trong Kinh Báo ân Cha Mẹ, Đức Phật nêu lý do của việc báo hiếu khi liệt kê 10 ân đức của cha mẹ :
 
ân giữ gìn mang thai trong 9 tháng.
ân sinh sản khổ sở
ân sinh rồi quên lo
ân nuốt đắng nhổ ngọt
ân nhường khô nằm ướt
ân bú mớm nuôi nấng
ân tắm rửa chăm sóc
ân xa cách thương nhớ
ân vì con làm ác
ân thương mến trọn đời.
….
Chính Đức Phật đã dạy: “Dựa trên thiện nam tử có lòng tin, các người trong gia đình được lớn lên về năm phương diện. Thế nào là năm ? Lớn lên về lòng tin, lớn lên về giới, lớn lên về học hỏi, lớn lên về bố thí, lớn lên về trí tuệ. Dựa trên thiện nam tử có lòng tin, các người trong gia đình được lớn lên vì năm sự lớn lên này” (Tăng Chi II).
 
Đạo hiếu trong truyền thống Công giáo
Trong quá khứ, do trân trọng truyền thống đạo Hiếu nơi người Việt Nam và cố gắng hội nhập văn hóa trong  việc trình bày sứ điệp Kitô giáo, linh mục Đắc Lộ đã cố gắng trình bày Kitô giáo qua học thuyết Tam Phụ, nghĩa là Hiếu kính đối với Thượng Phụ (Cha trên trời), với Trung Phụ (vua) và với Hạ Phụ (cha mẹ dưới đất). Các vị giám mục Việt Nam cũng đã nhận định về chữ Hiếu như điểm hội ngộ giữa Tin Mừng và nền tảng đạo đức xã hội: “Yêu thương và hiệp nhất là đặc điểm của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô và cũng là điểm gặp gỡ sâu xa nhất giữa Tin Mừng và văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa vốn lấy nghĩa đồng bào và đạo hiếu trung làm nền tảng cho đạo đức xã hội” (Thư chung năm 1998, số 5).
 
Để làm sáng tỏ tinh thần hiếu thảo của con cái Thiên Chúa, thiết nghĩ cần làm nổi bật chữ Hiếu trong huấn giáo, lối diễn tả đức tin cũng như cách sống của người Công giáo. Thực vậy, Hiếu đạo vốn là thái độ và đòi hỏi nền tảng của tinh thần Kitô giáo. Xét về phương diện thực hành luân lý, hiếu thảo đứng đầu 7 yêu cầu liên quan đến tương quan giữa người với người, trong 10 điều răn: “Thứ Bốn, thảo kính cha mẹ” (Kinh Mười điều răn).
 
Còn hướng về nguồn cội đức tin của mình, người Công giáo tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Anh Cả của nhân loại, “Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Người yêu thương và liên đới trách nhiệm với cả loài người, nhất là với những người bé mọn, nghèo khổ. Gương sống của Đức Giêsu là nền tảng của chữ Hiếu theo niềm tin của người Công giáo.
 
Con chí hiếu của Thiên Chúa: Đạo hiếu được đề cao nơi truyền thống thờ kính tổ tiên của Việt Nam có thể tìm gặp nơi Đức Giêsu Kitô một chứng từ sinh động, cụ thể của một người con đầy lòng hiếu thảo. Hơn ai hết Đức Giêsu không những hằng tuân phục cha mẹ trần thế khi nhập thể làm người (xem Lc 2, 51), mà còn là Hiếu tử của Cha trên trời, người con chí hiếu, chí ái của Thiên Chúa Cha. Lương thực của Người là thánh ý Chúa Cha (Ga 4, 34).
 
Cửa vào Đại gia đình Thiên Chúa: Bằng ngôn ngữ biểu tượng, Chúa Giêsu đã tự giới thiệu mình như cửa ngõ của ơn cứu độ, để bất cứ ai qua ngài, sẽ được cứu thoát (x. Ga 10, 9). Người xác quyết vai trò trung gian và sứ mạng cứu độ của Người đối với nhân loại.Nhờ Chúa Giêsu, mọi người có thể trở thành con Thiên Chúa, trở nên thành viên của đại gia đình con cái Thiên Chúa. Thực thế, “những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa Cha” (Ga 1, 12).
 
Bước theo Chúa Giêsu, người Anh Cả mẫu mực, trong suy nghĩ, thái độ và hành động, người Kitô hữu biểu lộ lòng hiếu thảo đối với Thiên Chúa là Cha (Thượng Phụ). Truyền thống Nho giáo vốn quen thuộc với cách nhìn mọi người là anh em: “Tứ hải giai huynh đệ”, nhưng điều mới mẻ mà Kitô giáo mang lại cho tương quan giữa người với người, chính là sự qui chiếu về Chúa Kitô, Con Người-Thiên Chúa. Người đổi mới mọi quan hệ con người bằng một Tình Yêu toàn hiến, bất vụ lợi và đưa đoàn em nhân loại đi vào hiệp thông với Hạnh Phúc vĩnh hằng của Đại Gia Đình Thiên Chúa Ba Ngôi.
 
Hãy bàn về chữ Tâm(心)
Hoạt động của con người tuy đa dạng và đa diện, nhưng giá trị đích thực của chúng đều qui về chữ Tâm. Thực vậy, cả truyền thống văn hóa tôn giáo Á Đông lẫn Kinh thánh đều trọng cái Tâm. Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên núi Yên Tử phát triển dòng thiền Trúc Lâm, đã từng trước tác bài kệ “Cư trần lạc đạo”, trong đó xác định đường tu chủ tâm chứ không tuy thuộc cảnh giới bên ngoài:
 
Ở đời vui đạo cứ tùy duyên
Hễ đói thí ăn mệt ngủ liền,
Báu sẵn trong nhà đâu kiếm nữa,
Vô tâm đối cảnh hỏi chi Thiền.
 
Tu tâm là phương thế hữu hiệu đạt thân và là một phương cách biến đổi con người và thế giới. Thấm nhuần ít nhiều âm hưởng của quan niệm “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” (Đại Học, chương I), của thuyết thiện tâm theo Mạnh Tử, Nguyễn Du đã diễn tả cốt lõi của sự thiện ở nơi tâm, trong đoạn kết thúc Truyện Kiều :
 
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
 
Tâm trong Nho giáo: Chữ tâm trong Nho giáo được hiểu theo nghĩa rộng là cái thần minh làm chủ cả tư tưởng lẫn hành vi của người ta. Hễ ta giữ được cái tâm tĩnh, không để cho vật dục che khuất cái sáng suốt tự nhiên, thì khi có vật gì cảm đến là ứng ngay được, và biết rõ ngay cái lẽ. Tâm ta càng tĩnh, thì trực giác càng nhạy bén. Do đó, Vô tư giã, vô vi giã, tịch niên bất động, cảm nhi loại thông thiên hạ chi cố, nghĩa là không nghĩ, không làm, im lặng không động, đến lúc cảm thì suốt được mọi cớ trong thiên hạ. Chuẩn mực đạo đức cơ bản nhất của con người là nhân nghĩa lễ trí. Mà “Nhân nghĩa lễ trí bắt nguồn từ tâm” (Tân tâm thượng). Chữ tâm được sử dụng 162 lần trong Kinh thi, diễn đạt các loại tình cảm tư tưởng nội tâm của con người. Khổng tử chỉ ra rằng : “Thi”, tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi viết : “Tư vô tà”, nghĩa là trong Kinh thi có 300 bài thơ thì chỉ có một câu có thể bao trùm được là: “không nghĩ bậy”. (Luận ngữ, Vi chính). Như thế, Kinh thi nhấn mạnh đặc biệt đến khái niệm về “Tâm đức”.
 
 
Theo Nho giáo, bốn cái tâm rộng lớn không thể đo lường được là Tứ vô lượng tâm (四無量心), gồm có: Hảo tâm, Hiếu tâm, Thiện tâm, Đạo tâm.
 
Hoàng Thiên bất phụ Hảo tâm nhơn,
Hoàng Thiên bất phụ Hiếu tâm nhơn,
Hoàng Thiên bất phụ Thiện tâm nhơn,
Hoàng Thiên bất phụ Đạo tâm nhơn.
 
Làm thế nào để dưỡng tâm ? Để dưỡng tâm cần thực hiện ba điều: giảm trừ ham muốn, dùng nhân lễ nghĩa để  giữ cái Tâm và bồi đắp tinh thần ngay thẳng.
 
Tâm trong đạo Phật: Có nhiều giáo pháp và kinh tạng trong lịch sử phát triển của đạo Phật, nhưng có thể nói chữ Tâm là điểm quy kết con đường mà Đức Phật đề nghị với chúng sinh. Có bốn cái Tâm vô lượng là Tứ vô lượng tâm, còn gọi là Tứ đẳng, Tứ Phạm hạnh hay Tứ Thiền trong  Thập nhị Thiền, đó là:
Từ vô lượng tâm : Tâm có thể đem lại niềm vui cho chúng sinh.
Bi vô lượng tâm: Tâm có thể trừ khổ cho chúng sinh
Hỉ vô lượng tâm: Tâm vui mừng khi thấy người khác khỏi khổ được sướng.
Xả vô lượng tâm: như ba Tâm trước, xả bỏ mà Tâm chẳng còn chấp trước. Hơn nữa oán thân bình đẳng, xả oán xả thân.Bốn tâm này phổ duyên vô lượng chúng sinh, dẫn đến vô lượng phúc, nên được gọi là vô lượng tâm.
 
 
Từ Bi Hỷ Xả là bốn đức tính cao thượng theo nhãn giới Phật giáo, càng có nhiều người thực hành các nhân đức này, thì xã hội sẽ được biến đổi, khởi đi từ thân tâm con người. Tứ vô lương tâm giúp cho con người trở nên chí thiện, có khả năng biến đổi con người tầm thường thành hiền nhân.
 
Đạo Phật có rất nhiều pháp môn, nhưng dù tu tập theo pháp môn nào, thì cũng nhằm mục đích duy nhất là thanh tịnh tâm: “Tự thanh tịnh tâm ý/ Là lời chư Phật dạy”. Tu thiền là để thanh tịnh tâm, mà niệm Phật cũng để thanh tịnh tâm. Muốn cho tâm thanh tịnh thì phải diệt trừ tam độc tham, sân, si. Nếu ngồi thiền mà tâm không chuyển hóa, các phiền não không diệt trừ, tam độc không hóa giải, thì “mài đá chẳng thành gương, ngồi thiền đâu thành Phật”. 
 
Sau cung, Kitô giáo: Đạo Tâm là nơi cư ngụ của Thiên Chúa
Kitô giáo không phải là đạo của lề luật, mà là đạo của con tim, tâm đạo. Vì giới luật căn bản nhất của Kitô giáo là luật của trái tim : Luật yêu thương. « Mười điều răn ấy tóm về hai này mà nhớ : Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy » (Kinh mười điều răn). Thật vậy, trong Tân Ước, nếu từ ‘lề luật’ được dùng 165 lần thì từ ngữ ‘tâm lòng’ hay ‘con tim’ được sử dụng đến 128 lần. Và cụ thể nhất, chính cách sống của Chúa Giêsu trong 3 năm công bố Tin Mừng yêu thương đã biểu hiện trái tim của Thiên Chúa cho nhân loại đang khao khát thương yêu. Lòng từ tâm của Đức Giêsu con biểu lộ cách đặc biệt đối với các tâm hồn yếu đuối lỡ lầm. 
 
Khi bao bậc vị vọng trong xã hội Do Thái thời bấy giờ đòi ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu đã phản ứng như thế nào ? Người giữ lặng thinh một lúc, rồi đưa ra lời chất vấn đầy thách thức, biến những nguyên cáo thành bị cáo: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8, 7). Người đọc được tà tâm của những người tố cáo và ban niềm hy vọng đổi đời cho nữ tội nhân.
 
Thánh Tâm: lẽ sống của người môn đệ. Lòng tôn sùng Thánh Tâm và tôn kính Lòng thương xót Chúa là một thực hành đang phổ biến khắp nơi trong thế giới Công giáo, thực ra đã đâm rẽ sâu trong tâm lòng nhiều thế hệ Kitô hữu và qui chiếu về Tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cho đến cùng, biểu lộ qua trái tim bị đâm thâu của chính Chúa Giêsu trên thập giá. 
 
Giữa nhiều điểm gặp gỡ, thiết nghĩ người Công giáo và tín đồ các tôn giáo khác tại Việt Nam có thể dễ dàng hội ngộ với nhau nơi lòng Hiếu kính và cái Tâm. Khi đồng tâm hiệp lực giáo dục chữ Hiếu và Tâm cho nhân sinh, đồng thời nỗ lực thực hành Hiếu và Tâm, cộng đồng những người tin có thể góp phần đặc thù của mình trong việc biến đổi, xây dựng và canh tân nhân tâm của con người cũng như của cộng đồng dân tộc.
(Theo lời trích tóm lược bài giảng của Linh mục  Phanxicô Xaviê Bảo Lộc).
 
 
Maman Oh Maman ( Romeo ) | Mẹ Hiền Yêu Dấu:
https://www.youtube.com/watch?v=bZ3PSA-XheQ