Ngày nọ, anh hẹn chị ra quán cà phê trước nhà ga chính của thành phố Bremen
Chị nói ra vẻ bực bội:
– Ông lại bán xe rồi hay sao mà đi tàu lên đây?
Anh cúi đầu, trả lời lí nhí, hổ thẹn:
–– Ừ… thì bán rồi! Vì cũng không cần nó lắm!
Chị sầm mặt xuống:
– Ông lúc nào cũng vậy! Suốt đời, không ngóc đầu lên được! Hẹn tôi ra đây, có chuyện gì vậy?
Khó khăn lắm anh mới có thể nói với chị điều mà anh muốn nhờ chị. Chị cũng khó khăn lắm mới có thể từ chối anh:
– Nhưng mà gia đình tôi đang yên lành! Nếu đưa con bé về, e sẽ chẳng còn được bình yên nữa!
Anh năn nỉ và nói:
–– Con bé đã đến tuổi dậy thì. Anh là đàn ông, không thể gần gũi và dạy dỗ nó chu đáo được. Anh chưa bao giờ cầu xin em điều gì, chỉ lần này thôi, giúp anh nửa năm hay vài ba tháng cũng được. Là phụ nữ, em gần nó, hướng dẫn và khuyên bảo nó trong một thời gian để nó tập làm quen với cuộc sống thiếu nữ. Sau đó, anh lại đón nó về.
Chị thở dài:
– Ông lúc nào cũng mang xui xẻo đến cho tôi! Thôi, được rồi, ông về đi, để tôi bàn lại với chồng tôi đã. Có gì, tôi sẽ gọi điện thông báo cho ông sau.
Anh nhìn chị với ánh mắt biết ơn, rồi đứng dậy, cúi đầu xuống như có lỗi, tiễn chị ra xe, thở dài, lủi thủi bước vào nhà ga để trở về Hamburg.
Trước kia, anh và chị là vợ chồng. Họ yêu nhau từ hồi còn học phổ thông. Anh đi lao động ở Đông Đức. Chị học Đại học Sư phạm Hà Nội. Ngày bức tường Berlin sụp đổ, anh chạy sang Tây Đức. Chị tốt nghiệp đại học và về làm giáo viên cấp 3 ở huyện Thái Thụy, Thái Bình.
Họ vẫn liên lạc và chờ đợi nhau.
Khi đã có giấy tờ cư trú hợp lệ, anh về cưới chị, rồi làm thủ tục đón chị sang Đức.
Vừa sang Đức, thấy bạn bè của anh đều thành đạt, đa số có nhà hàng, hay cửa tiệm buôn bán, chỉ có anh vẫn còn phụ bếp thuê cho người ta.
Chị trách anh vô dụng. Anh không nói gì, chỉ hơi buồn vì chị không hiểu rằng, để có đủ tiền lo thủ tục cho chị sang được đây, anh đã vất vả và tiết kiệm mấy năm trời, mà không dám bỏ tiền ra làm ăn.
”Đồ cù lần, đồ đàn ông vô dụng…”, đó là câu nói luôn miệng mà chị dành cho anh sau khi anh và chị có bé Hương.
Bé Hương sinh thiếu tháng, phải được nuôi bằng lồng kính đến hơn nửa năm mới về nhà. Khi bác sĩ thông báo cho vợ chồng anh chị biết bé Hương bị thiểu năng bẩm sinh, giông tố bắt đầu thực sự nổi lên. Chị trách anh: ”Một đứa con cũng không làm cho ra hồn, thì hỏi làm được gì chứ.”
Anh ngậm đắng, nuốt cay, nhận lỗi về mình và dồn hết tình thương cho đứa con gái xấu số.
Bé Hương được ba tuổi mà chưa biết nói. Cũng rất thương con, nhưng chị bận bịu làm ăn nên việc chăm sóc đứa bé hầu hết là do anh. Vì vậy mà con bé quấn quít bố hơn mẹ.
Biết vậy nên chị rất yên tâm và nhẹ nhõm nhường quyền nuôi dưỡng con bé cho anh khi làm thủ tục ly hôn.
Ly dị được gần một năm thì chị tái giá. Chị sinh thêm một đứa con trai với người chồng mới.
Bremen là thành phố nhỏ. Người Việt ở đó hầu như đều biết nhau. Chị cảm thấy khó chịu khi thỉnh thoảng bắt gặp cha con anh đi mua sắm trên phố.
Chị gặp anh và nói với anh điều đó. Anh thông cảm chị nên chuyển về Hamburg sinh sống.
Không phải là người vô tâm, thỉnh thoảng, chị gởi tiền cho anh nuôi dưỡng con. Trong những dịp năm mới hay Noël, chị cũng có quà riêng cho con bé. Nhiều năm, nếu có thời gian, chị còn đến tặng trực tiếp quà cho con bé trước ngày Lễ Giáng Sinh.
Giờ đây, con bé đã sắp trở thành thiếu nữ. Chị biết con bé lớn lên trong tật nguyền, nhưng anh rất thương nó. Chị cũng biết con bé gặp vấn đề trong giao tiếp, phải đi học trường khuyết tật. Nhưng nó rất ngoan. Anh cũng không phải vất vả vì nó nhiều. Nó bị bệnh thiểu năng, trí tuệ hạn chế, phát âm khó khăn. Tuy vậy, nó vẫn biết tự chăm sóc mình trong sinh hoạt cá nhân. Thậm chí nó còn biết giúp anh một số công việc lặt vặt trong nhà.
Chồng chị đồng ý cho chị đón con bé về tạm sống vài tháng với điều kiện: trong thời gian ấy, anh không được ghé thăm nó. Chị cũng muốn thế vì cảm thấy hổ thẹn khi phải tiếp xúc vẻ mặt đần đần, dài dại của anh.
Vợ chồng chị đã mua nhà rộng nên con bé được ở riêng một phòng. Chị xin cho con bé theo học tạm thời ở trường khuyết tật gần nhà. Con bé tự đi đến trường và tự về được. Ở nhà, nó cứ thui thủi trong phòng. Đứa em trai cùng mẹ với nó, mẹ nó và bố dượng nó rất ít khi quan tâm đến nó. Niềm vui duy nhất của nó là chờ điện thoại của bố. Nó phát âm không chuẩn và nói rất khó khăn nên hầu như nó chỉ nghe bố nói chuyện. Bố dặn dò nó rất nhiều và thỉnh thoảng còn hát cho nó nghe.
Em trai nó học thêm piano nên nhà mẹ nó có cái đàn piano rất đẹp để ở phòng khách. Có lần, nó sờ và bấm bấm vài nốt. Mẹ mắng nó và nói không được phá đàn của em. Nên, từ đó, nó không dám đụng đến đàn nữa. Có hôm, anh gọi điện thoại cho nó, nó nghèn nghẹn nói lỏm bỏm: ”Đàn… đàn…klavia…. con muốn…” Anh bèn thở dài và hát cho nó nghe.
Tháng đầu, hầu như ngày nào anh cũng gọi điện thoại cho nó. Rồi thưa dần, thưa dần. Cho đến ngày nọ, anh không gọi cho nó nữa. Sau một tuần, không nghe anh gọi điện thoại, con bé bỏ ăn và nằm bẹp ở nhà, không đi học. Chị chẳng biết gì, cứ mắng nó dở chứng.
Một đêm, chị bỗng bật choàng dậy khi nghe tiếng đàn piano vang lên. Chị chạy ra phòng khách, thấy con bé đang ngồi đánh đàn say sưa. Nó vừa đánh, vừa hát thì thầm trong miệng. Chị cứ há hốc mồm, kinh ngạc. Chị không thể tưởng tượng nổi là con bé chơi piano điêu luyện như vậy. Chị chợt nhớ ra là có lần anh nói với chị rằng con bé học đàn piano ở trường khuyết tật, cô giáo khen con bé có năng khiếu. Lần đó, tưởng anh kể chuyện để lấy lòng chị nên chị không quan tâm.
Chị đến gần sau lưng nó và lặng lẽ ngắm nhìn nó đánh đàn. Chị cúi xuống, lắng nghe con bé hát thầm thì cái gì. Chị sởn cả da gà khi nghe con bé hát rõ ràng từng tiếng một, mà lại bằng tiếng Việt hẳn hoi: “…Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo…sống với cha êm như làn mây trắng…nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con….với tháng năm nhanh tựa gió…..ôi cha già đi cha biết không…”
Chị choàng tay ra trước cổ nó và nhẹ níu, ôm nó vào lòng. Lần đầu tiên, chị ôm nó âu yếm như vậy. Chị thấy tay mình âm ấm. Nó ngừng đàn, đưa tay lên ôm riết tay mẹ vào lòng ngực. Nó khóc. Chị xoay vai nó lại, nhìn vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nó. Nó chìa cho chị một tờ giấy khổ A4 đã gần như nhàu nát. Chị cầm tờ giấy và chăm chú đọc, rồi thở hắt ra, nhìn nó và hỏi: ”Con biết bố con bị ung thư lâu chưa?” Nó chìa bốn ngón tay ra trước mặt mẹ.
Chị hỏi: ”Bốn tháng rồi hả?” Nó gật đầu.
Chị nhìn chăm chăm vào tờ giấy và, từ từ ngồi thụp xuống nền nhà, rũ rượi, thở dài. Con bé hốt hoảng, đến bên mẹ, ôm mẹ vào lòng, vuốt mặt mẹ rồi, vừa ấp úng, vừa ra hiệu cho mẹ. Đại ý là nó diễn đạt rằng: Bố lên ở trên Thiên Đường rồi, mẹ yên tâm, con đã xin vào nội trú ở trường dưới Hamburg. Ngày mai, con sẽ về dưới đó, con không ở lại đây lâu để làm phiền mẹ và em đâu! Con về ở tạm đây là vì bố muốn thế, bố muốn mình ra đi được nhẹ nhàng và yên tâm là có mẹ ở bên con.”
Chị cũng ôm nó vào lòng, vỗ vỗ vào vai nó và nói: ”Con gái ngoan của mẹ, ngày mai, nếu mẹ sắp xếp được công việc, mẹ sẽ đưa con về Hamburg….”
Lời kết:
Tôi nghe người ta kể lại câu chuyện đó khi dự cuộc biểu diễn nghệ thuật của học sinh khuyết tật và khiếm thị. Khi thấy em gái đệm đàn piano cho dàn đồng ca, cứ khăng khăng đòi phải đàn và hát bài “Người Cha Yêu Dấu” bằng tiếng Việt trước, sau đó mới chịu đệm đàn cho dàn đồng ca tiếng Đức. Quá kinh ngạc, nên tôi cứ gạn hỏi mãi người trong ban tổ chức. Cuối cùng, họ kể cho tôi nghe câu chuyện như vậy.
Câu chuyện đơn giản, không nhiều tình tiết, đã lấy đi nước mắt của nhiều người đọc. Tôi hình dung cảnh người cha Việt Nam gầy ốm, bệnh hoạn và đứa con gái tật nguyền tội nghiệp của anh trên đất khách quê người.
Tôi thấy được hình ảnh đứa con gái tưởng nhớ người cha – mà em biết đã mất rồi – qua tiếng đàn piano. Tiếng đàn ấy đau đớn biết bao. Tôi nghe được cả lời ca nghẹn ngào của em …
”Nhớ những năm xa xưa, ngày cha đã già với bao sầu lo…sống với cha êm như làn mây trắng…nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con….với tháng năm nhanh tựa gió.. ôi cha già đi cha biết không…”