Tại vùng 1 chiến thuật với những địa danh có tính chiến lược, cùng thiên nhiên khí hậu cảnh đẹp núi đồi, thì không thể quên vùng núi Bạch Mã.
Từ độ cao của Bạch Mã có thể nhìn bao vùng cả khu đồng bằng, từ Lăng Cô ra đến phía Nam Phú Bài – Huế. Vì vậy vc lợi dụng trong tình huống QLVNCH đang bị Mỹ cắt bớt viện trợ, nên những phi vụ đánh bom và pháo binh bị hạn chế rất nhiều, để đánh chiếm điểm chiến lược nầy.
Trước khi Hiệp Định Ba Lê được ký kết để ngừng bắn giữa hai miền Nam & Bắc. Ai ở đâu thì ở đó để chờ sự kiểm tra của Ủy Ban Liên Hiệp Quân Sự 4 bên xét duyệt. Lúc đó, các toán của Sở Công Tác thường được nhận công tác nhảy vào các vùng núi chiến lược để cắm cờ vàng 3 sọc đỏ trên các rừng núi, và vùng núi Bạch Mã là một trong những điểm chiến lược quân sự rất quan trọng của vùng 1 cần phải xâm nhập chiếm giữ nhanh trước khi có hiệp định Ba Lê.
Do đó khi được lệnh Quân Đoàn1, Sở Công Tác liền thả vài toán đầu tiên xuống vùng Bạch Mã để thám sát địa thế tình hình. Khi các toán nhảy xâm nhập vào vùng hoạt động theo lệnh hành quân an toàn, rồi vài ngày sau đó gởi báo cáo về các Bộ Chỉ Huy Đoàn để cho biết trên các đồi núi vùng Bạch Mã khá yên tỉnh chưa thấy dấu vết của công quân chiếm đóng.
Nên Sở Công Tác được lệnh Quân đoàn 1 cho các Đoàn thay phiên lên chiếm đóng đỉnh núi chính của vùng Bạch Mã để làm đầu cầu cho Địa Phương Quân lên trấn giữ.
Lúc đó, hằng ngày các phi vụ trực thăng của PĐ 253 rất bận rộn để chuyển người và lương thực của các Đoàn Công Tác lên trấn thủ ngọn núi Bạch Mã. Các Đoàn của Sở Công Tác thay phiên nhau lên Bạch Mã rồi đóng quân trong một toà nhà lầu đổ nát trên ngọn núi chính của vùng Bạch Mã.
Cách xa đỉnh núi của Đoàn Công Tác/SCT khoảng 150 mét về hướng Nam có một đỉnh núi hơi thấp được Địa Phương Quân của Tỉnh Thửa Thiên-Huế trấn đóng.
Các Đoàn Công Tác và Điạ Phương Quân thường liên lạc qua lại để giữ an ninh chung quanh vùng núi Bạch Mã.
Dưới chân núi vùng Bạch Mã có một đường đèo hoang lở đã bỏ lâu ngày vì chiến tranh chạy ngoằn nghèo quanh vùng núi ra đến vùng đồng bằng Đá Bạc – Cầu Hai. Trên các đồi núi thấp dọc theo đường đèo ấy có một Tiểu Đoàn Địa Phương Quân rải quân trấn đóng để an ninh diện địa.
Khi Hiệp định Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 là một sự sắp đặt của bàn cờ quốc tế để Mỹ rút lui khỏi VN trên danh nghĩa, rồi bỏ mặc cho người bạn đồng minh VNCH trong tình huống thiếu thốn viện trợ mọi bề, kể cả súng ống đạn dược v.v.
Sau khi lực lượng quân sự Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3 năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Giải phóng miền Nam chuẩn bị cho việc đánh dứt điểm chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đang trong tình trạng thiếu thốn đạn dược cố gắng xoay trở chống đỡ.
Vì thế vai trò của Hiệp định Paris, trên thực tế, đến đây là đã hết.
Trong thời gian nầy việt cộng bắt đầu lấn chiếm các vùng núi quanh hai đồi của Đoàn Công Tác và Địa Phương Quân để bắn sẽ, và những lần tiếp tế lương thực bằng trực thăng rất là khó khăn nguy hiểm trước hỏa lực súng phòng không của địch.
Vì vậy Tiểu Khu Thừa Thiên có đưa một nhóm nhỏ của ngành Chiến Tranh Chính Trị đem máy móc lên Bạch Mã để phát thanh kêu gọi việt cộng hãy tôn trọng Hiệp Định Balê.
Có một lần Phi Đoàn 253 tiếp tế gạo cho Đoàn 72 Sở Công Tác.
Trước khi trực thăng bay vào vùng, thì phi cơ L19 bay vào trước lạng quanh các đồi núi, rồi bắt loa phát thanh yêu cầu vc phải tôn trọng lệnh “ngừng bắn” của Hiệp định Balê, sau đó trực thăng mới bay vào để tiếp tế.
Nhưng! lần đó phi công Phan văn Phúc khi vừa điều khiển chiếc trực thăng sắp đến đỉnh núi của Đoàn Công Tác, thì súng cao xạ của địch bắn xối xả lên trực thăng.
Trước hỏa lực của địch, hai chiếc Gunship và A 37 nhào xuống bắn và đánh bom để yểm trợ.
Sự gan dạ sống chết cùng chiến hữu không làm Phi Công Phúc chùn tay lái, cố bay lạng lách theo kinh nghiệm với bản năng phản ứng tự nhiên đã liều mạng đưa trực thăng lên đồi Bạch Mã và nhanh chóng đạp thả được hết 10 bao gạo tiếp tế.
Một ngày thật kinh hoàng với bom rơi đạn nổ như một cảnh trong phim ảnh khó quên, cũng nhờ sự gan dạ của Phi công Phúc, Đoàn 72 Sở Công Tác mới có lương thực để chiến đấu cho đến ngày cuối,và tôi vẫn còn nhớ.
Vài tuần sau, vào một buổi sáng trong căn phòng chỉ huy, chai Champagne được Thiếu Tá Minh rót ra để mời các anh em Sĩ quan, có cả Trung Úy Minh, anh Trung Úy Quãng, Đại Úy Tùng, Hậu, đang ngồi lắng nghe Thiếu Tá Minh nói về tình hình chiến sự và cho biết Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Đoàn 72 được lệnh rút vào Đà Nẳng.
Vì trong thời gian nầy máy bay trực thăng tiếp tế lương thực rất thiếu, và bay đến rất khó khăn bởi súng phòng không của địch.
Lệnh Thiếu Tá Minh chỉ định Toán 723 phải ở lại trấn giữ đỉnh núi của các Đoàn làm căn cứ ở lâu nay trên trên Bạch Mã, để chờ , vài ngày bộ binh sẽ lên tiếp nhận, còn các Toán khác rút theo Bộ Chỉ Huy Đoàn 72 về Đà Nẳng.
Có lẽ, mang cái tên Hậu theo định số mà cha mẹ đặt lúc mới lọt lòng, có nghĩa là người “ sau cùng ” nên tôi đành chịu trận, chỉ tội cho các toán viên phải bị vạ lây theo.
Được bổ sung thêm vài toán viên ở lại, nên Toán 723 nay có tất cả được 10 người, và chúng tôi đang đơn côi thu dọn những đồ đạc vất bừa bãi ngổn ngang ở dưới bãi trực thăng và trong các căn phòng ngủ, bởi khi anh em đeo trực thăng rút lui thì không thể đeo theo lên máy bay trực thăng bốc về trong cảnh lửa đạn vội vàng hãi hùng.
Nhìn anh em thu dọn đồ đạc trong im lặng với khuôn mặt cúi gầm xuống đất, tôi thấu hiểu cái tâm trạng ấy, vì chính tôi cũng cảm nhận được những gì của cõi lòng mình…
Lúc các Đoàn lên trấn thủ phải dùng kẽm gai “Concertina” rào phòng thủ quanh nhà lầu, đào giao thông hào nối liền với 5 lô cốt thiết kế bằng bao cát để làm 5 điểm canh gác, cùng gài mìn claymore, lựu đạn, trái sáng bao quanh đồi.
Ngôi nhà lầu nầy trước đây đã được một kỹ sư người Pháp xây với chiều dài khoảng 30m, chiều rộng 20m. Các phòng được xây bao quanh cái sân chính giữa nhà được đúc bằng bê tông mà bên dưới làm hồ để chứa nước mưa, mỗi phòng đều có cửa đi ra giữa sân.
Chỉ có hai cửa chính Bắc – Nam dùng đi ra ngoải nhà lầu, và mé bên trong kế cửa ra vào hướng Nam có một cầu thang đúc xi măng để đi lên sân thượng.
Nay chỉ có 10 người nên tôi co cụm thu hẹp lại với thế trận để tử thủ về đêm, chỉ đặt 2 vọng gác trước 2 cửa ra vào, và tùy theo thời tiết sương mù mây bay, màn đêm nếu quang đãng thì rão bước ra xa để quan sát động tỉnh.
Các thùng lựu đạn được đem bỏ lên tầng sân thượng, rồi cột một sợi giây dài vào cái cột trụ gãy mé về hướng đồng bằng, để trong trường hợp ban đêm nếu bị đặc công việt cộng đột kích, toán sẽ chạy lên sân thượng tử thủ rồi dùng lựu đạn thả xuống các phòng bên dưới, và trong trường hợp “bất khả kháng” thì phải dùng sợi giây để liều mạng tìm “ sự sống trong cái chết” rồi nhảy ra khỏi hàng rào concertina đầy mìn bẫy hy vọng thoát thân.
Ban ngày, chúng tôi không lo, chỉ cần một người gác đi lòng vòng xung quanh nhà lầu, nếu tụi nó bắn là tụi tôi sẽ đáp trả lại đầy đủ cả vốn lẫn lời liền.
Trong thời gian nầy, việt cộng thường lợi dụng lúc sương mù tan loãng trên đỉnh đồi, để bắn sẽ anh em Địa Phương Quân và Toán 723.
Nhưng mỗi lần chúng bắn sẽ vào Toán 723 thì bị anh em bắn M72 trả lại khiến chúng lo sợ.
Còn vc bắn sẽ lính Địa Phương Quân thì chúng chẳng hề bị bắn trả lại, nên chúng thường hay bắn vào lính Địa Phương Quân, và đã làm bị thương, chết vài người mà trong đó có Thiếu Úy Hồng Đại Đội Phó Địa Phương Quân.
Từ đó, cảnh thần tiên thơ mộng của Bạch Mã không còn nữa mà chỉ có đạn bom đêm ngày nổ vang trên đồi, tung bụi bay mù mịt, pha trộn trong mây gió làm bẩn màu trắng của trời mây.
Một tháng sau, được Bộ Chỉ Huy Đoàn 72 báo tin người em ruột của tôi ở Sư Đoàn 1 vừa mới tử trận. Tôi xin lệnh Đoàn 72 cho tôi băng rừng về Đà Nẳng một mình để tiễn đưa người em đi vào vùng trời mới, nhưng không được chấp thuận.
Đây là lần thứ hai gặp tình huống oái ăm, còn lần đầu khi đang chuẩn bị lên Komtum nhảy thực tập thì nhận tin người anh ruột tử trận ở Long An, cũng không được chấp thuận để về Sài Gòn nhìn người anh lần cuối.
Đời chiến binh là thế, việc nước trước việc nhà, tôi hiểu nên đành chấp nhận cái định số để trấn an tâm hồn.
Nhưng ! Trước cảnh gia đình đã có 3 người anh em hy sinh, còn lại mình tôi đơn độc, lắm lúc ngồi trên đồi Bạch Mã mắt mơ màng ngắm theo những làn mây trắng bay qua, trắng cả một vùng trời, rồi chợt một ý nghỉ thoáng qua đầu… nếu ngày nào đó mình cũng đi theo các anh em thì gia đình sẽ tuyệt nòi và ai lo cho cha mẹ.
Do đó, trước sự vi phạm Hiệp Định Ba Lê qúa trắng trợn của vc trên vùng Bạch Mã, tôi linh tính có ngày tụi nó sẽ bao vây đánh mình, và chuyện may rủi sống chết biết đâu mà lường, nên tôi đề nghị các anh em sẵn có máu văn nghệ, biết đờn ca, lấy máy phát thanh, microphone mà trước đây nhóm Chiến Tranh Chính Trị lên công tác đã bỏ lại lúc rút về Huế, để làm một đêm văn nghệ dã chiến với chủ đề “ ĐÊM BẠCH MÃ ” không ngoài mục đích yêu cầu vc hãy tôn trọng hiệp định Ba Lê, đừng bắn sẽ nữa, nếu bắn thì Toán 723 phải tự vệ và sẽ bắn lại.
Tôi còn nhớ mang máng viết đôi dòng để giới thiệu “Đêm Bạch Mã” như sau: “Cùng các bạn bên kia đồi Bạch Mã.
Chúng ta là người VN, giống con rồng cháu tiên, ắt cùng chung một sự rung cảm nhịp đập của con tim khi thấy quê mẹ đang đau thương bởi chiến tranh tương tàn… Đến với các bạn đêm nay bằng lời ca của những người lính trẻ trong chiến trận đau thương của hai miền đất nước ….” .
Thời gian hơn 40 năm đi qua đã quên đi những dòng chữ ngày ấy, nhưng không ngoài mục đích là làm sao tụi nó phải hiểu và tôn trọng lệnh ngừng bắn.
Và đó cũng là cái lo của người trưởng toán đơn độc chỉ có 10 người đang giữa vòng vây ngày càng siết chặt của cộng quân.
Qua đêm hôm sau, chúng tôi nghe Địa Phương Quân nói đang nghe vc bên kia núi cũng bắt loa hò hát và đọc những lời tuyên truyền xuyên tạc, nhưng vì dưới chiều gío thổi nên Toán chẳng nghe rõ được gì.
Gần 2 tháng trời sống trong lửa đạn bom rơi, cảnh chết chóc bị thương của lính Đia Phương Quân, mà chẳng có đơn vị bộ binh nào lên thay thế.
Hằng ngày, các anh em toán luôn hối thúc chuyên viên truyền tin gọi về Bộ Chỉ Huy Đoàn 72 để xem có bộ binh lên thay Toán chưa.
Nhưng bên kia đầu máy PRC 25, cũng như mọi lần rè rè tiếng nói:
Chưa, cứ chờ đó.
Sự bất mãn của anh em Toán 723 nảy sinh từ đó, vì bộ binh không lên thay thì phải cho Toán khác lên thay chứ.
Anh em Toán 723 cảm thấy như 1 đứa con bị bỏ chợ, hay là Toán “bị đì ” nên các anh em bàn bạc rủ tôi bỏ đồi Bạch Mã xuống núi về Đá Bạc, sống chết có nhau.
Là một người Trưởng Toán từng sống chết với anh em kể từ ngày thành lập Đoàn 72 tại Nha Trang, chúng tôi chia nhau điếu thuốc, ngụm nước, ly cà phê đen, phì phà khói thuốc se xì ke, phê lâng lâng đê mê thả hồn phiêu du trong chốc lát…
Tôi buồn bả thông cảm lắc đầu:
Các em cứ ra đi để sống, còn anh phải ở lại sống chết cùng Bạch Mã.
Thấu hiểu vì Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm nên phải chấp hành Quân Lệnh của thượng cấp, dù chưa biết đó đúng hay sai?
Thi hành trước khiếu nại sau, nên tôi đành chấp nhận ở lại Bạch Mã với TS Tiến nhân viên truyền tin.
Rất may tụi việt cộng và cả Địa Phương Quân bên kia núi không biết anh em ra đi để lại Bạch Mã chỉ còn có 2 người thức trắng 2 đêm canh gác.
Sau hai ngày thì Chuẩn Uý Đàm Quang Phong được lệnh dẫn một số anh em các Toán và vài toán viên 723 trễ phép, chuồn lặn đi chơi, bị quân cảnh bắt, rồi lội bộ đường rừng lên tăng viện cho chúng tôi.
Chuẩn Uý Phong cho biết khi anh em Toán 723 do TS Phong (Phong đen) hướng dẫn bỏ Bạch Mã lội bộ đường rừng về Đá Bạc thì Thiếu Tá Minh và cả Bộ Chỉ Huy Đoàn 72 hoảng hốt lên, lính quýnh quáng như gà mắc đẻ, vội vàng ra lệnh Chuẩn Úy Phong vừa mới đi phép về dẫn vài anh em lên bổ sung quân số Bạch Mã liền.
Tháng ngày trôi qua, mùa mưa lại đến, Bạch Mã với ngày đêm mưa tầm tã, bầu trời đen tối âm u, mây mù che phủ nên tầm quan sát hạn chế trong khoảng 10 mét.
Lợi dụng thời tiết xấu đó, việt cộng đã tấn công bằng chiến thuật tiền pháo hậu xung vào đồi của Đại ĐộiĐịa Phương Quân và Toán chúng tôi.
Đã từng chiến đấu đơn độc trong rừng sâu núi thẳm của vùng Tam Biên, nên chúng tôi chẳng hề nao núng trước trận địa, sẵn sàng đợi việt cộng bò lên đỉnh đồi để bắn hạ.
Nhưng chúng chỉ pháo phủ đầu vào đồi của Toán 723 để nghi binh, rồi nhào lên tấn công bên đồi của Địa Phương Quân .
Ầm…Ầm lửa chớp khói bay tiếng đạn reo réo víu vu, núi đồi Bạch Mã rung chuyển dưới cơn mưa sáng sớm.
Bất chợt nghe tiếng Đại Úy Bạch Đại Đội Trưởng Địa Phương Quân kêu vang trong máy truyền tin vội vã:
Hồng Hà, Hồng Hà đây Bắc Bình anh nghe rõ trả lời .
Tôi vội vàng cầm ống liên hợp áp sát vào tai:
Hồng Hà nghe Bắc Bình rõ 5/5.
Tiếng Đại Úy Bạch nói lớn trong ống nghe:
Tụi vẹm nó bám sát xung quanh hàng rào và tôi nghe rõ tiếng nói của chúng.
Nhờ anh bắn đại liên yểm trợ vào hướng đi lên đồi của chúng tôi để nó không chạy lên được đồn.
Tôi trấn an:
Tôi sẽ yểm trợ Bắc Bình. Hãy an tâm.
Vì mây mù qúa dày đặc không thể thấy được đồn của Địa Phương Quân nên tôi đã cho Trung Sĩ Thành đen và Minh mập bắn đại liên M60 để yểm trợ đồn Địa Phương Quân theo hướng địa bàn tôi hướng dẫn.
Chừng 10 phút sau, tiếng Đại Úy Bạch của Địa Phương Quân lại vang lên trong máy mừng rỡ:
Cám ơn anh đã yểm trợ tốt, và xin anh tạm ngừng bắn.
Sau khi ngừng bắn đại liên M60 để yểm trợ cho Địa Phương Quân xong, và đang chờ đợi lệnh của Bộ Chỉ Huy Đoàn 72.
Ngồi trong lô cốt nghe tiếng đạn rơi pháo nổ ầm ầm của các đơn vị Pháo Binh yểm trợ, và cả pháo việt cộng bắn vào nhà lầu, làm rung chuyển ngọn đồi như sắp đổ sụp tan tành.
Bất chợt tôi nghe tiếng anh em nói vọng vào:
Có tiếng lính Địa Phương Quân xin đi vào đồi của mình anh Hậu ơi.
Vội vàng chạy ra khỏi lô cốt để nhìn xuống lối nhỏ đi lên đồi, nhưng sương mù đục ngầu chẳng thấy được gì cả.
Tôi chỉ nghe tiếng ồn ào dưới gần chân đồi dồn dập la lớn:
Địa Phương Quân đây, cho chúng tôi lên đồi, xin đừng bắn.
Nửa tin nửa ngờ, không biết lính Địa Phương Quân hay việt cộng trá hình.
Sau mấy giây đắn đo suy nghĩ, Tôi vội hét lớn:
Các anh hãy đưa hai tay với súng ống lên đầu rồi đi lên từ từ từng người một.
Nếu ai không làm đúng chúng tôi sẽ bắn.
Dạ ! Dạ nghe.
Tôi nhanh chóng cho bố trí trên góc trái sân thượng cây đại liên M60 do T/Sĩ.Thành đen xử dụng hướng súng ngay lối nhỏ đi lên đồi, để phản ứng khi có tình huống bất ngờ xảy ra, sau đó mới cho lính Địa Phương Quân đi lên.
Khi Địa Phương Quân lên đồi xong, tôi kiểm tra thấy có khoảng chừng 60 người, có người có súng, người thì tay không, kể cả những người bị thương với vẻ mặt thất thần sợ hãi đang nhỏ to chuyện trò hỏi han.
Anh em Địa Phương Quân cho biết sau khi được chúng tôi bắn đại liên yểm trợ xong, thì thấy Đại Úy Bạch mở hàng rào ra khỏi đồn, rồi chạy về hướng đồi của Toán 723.
Nhưng vì mây mù phủ che tầm nhìn, lính Địa Phương Quân tưởng Đại Úy Bạch chạy qua đây nên đã vội vàng chạy theo để xin đi lên đồi của Toán.
Có ai ngờ đâu Đại Úy Bạch một mình chạy về Tiểu Đoàn đóng ở vùng núi gần dưới đồng bằng Phú Lộc-Cầu Hai, Nước Ngọt.
Đã từng đơn độc trong rừng sâu quen rồi, và cả tuần qua cùng anh em chiến đấu để giữ vững ngọn đồi.
Nay có thêm một số lính Địa Phương Quân chạy qua gần cả trăm người, nên tôi và anh em Toán 723 càng tăng thêm sự tự tin quyết sống chết cùng Bạch Mã.
Nhưng ! nhìn thấy sự hỗn loạn sợ hãi của lính Địa Phương Quân, tôi liền bảo anh em Toán mở loa phóng thanh rồi cùng hát to bài Quốc Ca “…nầy công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi, đồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống …” để kích động tinh thần anh em Địa Phương Quân.
Dưới trời mưa lất phất, mây mù phủ kín đồi, tiếng nổ của đạn pháo ầm vang, hòa cùng bài Quốc Ca VN với tiếng hát nhịp nhàng, như một bản hòa tấu hùng mạnh đang vang dội khắp đồi, làm sôi sục dòng máu ấm trong lòng thúc dục tôi bước ra khỏi lô cốt, tay cầm đàn miệng hát bài Quốc Ca, và đi theo dọc hệ thống giao thông hào dưới trời mưa phùn lành lạnh xuyên qua các lô cốt, để kích động tinh thần của lính Địa Phương Quân.
Thật không ngờ, có lẽ lời của bài Quốc Ca đã trỗi dậy được tinh thần để vượt qua nổi sợ hãi của những người lính trên đỉnh đồi Bạch Mã này, hãy cùng bên nhau chiến đấu trước cảnh hiểm nguy.
Tôi rất vui mừng khi thấy anh em Địa Phương Quân bày tỏ một lòng sống chết với Toán 723 để cố giữ vững đồi Bạch Mã,
và một vài anh em toán nhìn tôi cười lớn vui vẻ.
Không biết chuyện gì mà anh em vui vậy, tôi liền hỏi Minh:
Có chuyện gì mà vui thế?
Minh cười lộ ra cả cái răng vàng:
Hồi nảy lính Địa Phương Quân nói: Trung Sĩ cho em bắn vài phát đạn M60 cho lên tinh thần.
Nó gọi TS xưng em vui qúa anh Hậu ơi.
Té ra là vậy, tôi chợt hiểu từ trước đến nay các anh em toán chưa bao giờ có lính trong tay, nay có lính trong tay thì đó là một niềm vui trong chiến trận, và làm tôi cũng vui lây, vì số Địa Phương Quân chạy qua đều dưới sự chỉ huy của tôi.
Sau khi cùng chiến đấu từ sáng đến xế trưa thì lương thực khô dự trữ đã cạn hết, vì đã chia xẻ khẩu phần cho lính Địa Phương Quân.
Tôi phải gọi về đơn vị để xin thả dù tiếp tế lương thực.
Nhưng thời tiết qúa xấu, mưa gío cả tuần nay chưa ngừng, lại thiếu phương tiện máy bay để thả hàng tiếp tế, nên Quân Đoàn 1 đã cho lệnh Toán rút khỏi Bạch Mã.
Khi nghe lệnh bỏ đồi Bạch Mã, lòng tôi cảm thấy buồn vui lẫn lộn, một đỉnh núi mà đã có nhiều hình ảnh quen thân trong thời gian qua trấn đóng, và nay có thêm quân lính trong tay nên tôi vững tin ngọn đồi sẽ đứng vững trước địch quân, còn mừng vì sắp trở về gặp lại gia đình.
Khi nhận lệnh rút lui, tôi không nghe nói gì đến Địa Phương Quân, vì vậy tôi chỉ cho anh em toán biết lệnh rút lui thôi, rồi cho phá hủy các khẩu súng cối cùng đạn dược, thiêu hủy giấy tờ tài liệu. Còn Ts Thành đen thì vội vàng tháo nòng cây đại liên M60 rồi lịệng xa xuống mé núi dốc đứng phía đồng bằng, sau đó Thành đã lấy cục than viết lên tường gần kho đạn câu “đả đảo Cộng Sản Bắc Việt xâm lăng miền Nam”.
Các Trung Đội Trưởng Địa Phương Quân thấy được những việc khác lạ của chúng tôi nên thăm dò hỏi tôi.
Lúc đó tôi mới cho họ biết lệnh rút lui của chúng tôi và nói họ liên lạc về Tiểu KhuThừa Thiên để xin lệnh.
Sau đó Tiểu Khu Thừa Thiên liên lạc trực tiếp với tôi rồi nhờ chúng tôi dẫn đường giúp đưa Địa Phương Quân rút theo với.
Tôi gom toán lại, và chia đều anh em ra đi theo từng Trung Đội Địa Phương Quân để chỉ huy.
Sau đó ban lệnh rút lui cho các Sỉ quan Trung Đội Trưởng Địa Phương Quân biết mà thi hành.
Để cho sự rút lui không hỗn loạn, lắm lúc tôi phải cứng rắn với các Sĩ Quan Địa Phương Quân để lính tráng Địa Phương Quân đi vào kỷ luật trong lúc chiến đấu.
Dưới trời mưa, lợi dụng mây mù dày đặc khó quan sát, chúng tôi dùng mìn Claymore phá hủy hàng rào nơi dốc đứng gần chổ cầu tiêu để làm hướng rút lui an toàn.
Vì nếu rút đi theo con đường mòn nhỏ hay lên xuống của Địa Phương Quân, linh tính báo e sẽ bị phục kích.
Để nghi binh cho việt cộng nghĩ chúng tôi còn đang trấn thủ trên đồi.
Tôi nói Thành và vài anh em chờ đi sau cùng, cứ thỉnh thoảng bắn vài tràng đại liên và M79 qua hướng đồi Địa Phương Quân đang bị việt cộng chiếm đóng, trong khi chúng tôi thứ tự rút lui.
Tôi và Tiến đi đầu theo một Trung Đội Địa Phương Quân, Chuẩn Úy Phong đi gần Trung đội sau cùng.
Khi biết tất cả anh em của nhóm đi sau cùng ra khỏi hàng rào của đồi một khoảng xa khá an toàn.
Tôi liền gọi yêu cầu pháo binh bắn ngay trên đỉnh đồi.
Pháo của mình và pháo của địch nổ ầm ầm rung động cả núi đồi, bởi việt cộng cứ tưởng mình còn ở trên đồi.
Nhưng lúc đó chúng tôi đã xuống gần nữa dốc núi rồi, và cũng là lúc tôi bị một tảng đá lớn từ trên cao bay xuống xớt qua đầu kéo theo thân hình tôi lộn theo mấy vòng rồi bất tỉnh.
Khi mở mắt ra, máu phủ cả mắt nên thấy toàn màu đỏ.
Tôi được anh em băng bó cầm máu quanh đầu như quấn một vòng khăn tang cho đồi Bạch Mã…
Sau khi băng bó xong, anh em cho biết ai cũng nghĩ tôi sẽ chết khi họ nhìn thấy tảng đá bay xéo ngang qua đầu của tôi rồi tôi lăn theo.
Cám ơn Trời, tôi vẫn còn sống dù đầu óc có hơi choáng váng, nhưng tôi còn đủ sức di chuyển cùng anh em xuống tận chân núi, rồi theo đường đèo hoang bỏ ngày trước đi về ngọn đồi của Tiểu Đoàn Địa Phương Quân đóng quân để ngủ qua đêm.
Sáng hôm sau thức dậy sớm, chúng tôi chia tay với số anh em Địa Phương Quân đã rút theo chúng tôi từ đỉnh Bạch Mã về Tiểu Đoàn Địa Phương Quân an toàn.
Trước khi tạm biệt, anh em lính Địa Phương Quân chạy đến ôm tôi run run xúc động nói lời cám ơn, và bịn rịn chia tay cùng các anh em trong toán. “Ơn Nghĩa- Tình Người” mà lính Địa Phương Quân đã thể hiện trong chiến trận thật cảm xúc. Tôi đưa tay dụi đôi mắt cay cay ươn ướt miệng gượng cười méo xẹo khi thấy họ chỉ là những người lính binh nhì thôi, nhưng con tim của họ biết rung cảm từ “Đạo Làm Người”. Họ mới đúng là Người…
Để tránh bị phục kích, chúng tôi không đi theo đường mòn, mà nhắm hướng đồng bằng để vượt rừng suối xuôi về hướng đông, và đến ven rừng Cầu Hai- Nước Ngọt vào lúc xế chiều. Đại Úy Tùng với vài anh em của Đoàn 72 từ Đà Nẳng ra đón chúng tôi, rồi được xe GMC của Đoàn 72 đưa về Sơn Trà, Đà Nẳng.
Còn tôi thì đi vào Bệnh Viện Duy Tân – Đà Nẳng.
Lê Văn Hậu-Toán 723
https://www.facebook.com/groups/miennamvietnam/permalink/2123199961252894/