Tranh cảnh gia đình Thúy Kiều gặp gia biến
Thằng bán tơ kia giở giói ra,
Làm cho bận đến cụ Viên già.
Muốn êm phải biện ba trăm lạng,
Khéo xếp nên liều một chiếc thoa.
Nổi tiếng mượn màu son phấn mụ.
Đem thân chuộc lấy tội tình cha.
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ?
Đời trước làm quan cũng thế a?
(Nguyễn Khuyến)
*Xin họa nguyên vận cùng cụ Nguyễn Khuyến
Chẳng những ngày xưa giở thói ra,
Mà nay lắm cảnh xót thân già.
Bôi trơn lắm kẻ chìa tiền lót,
Mắc tội nhiều thằng lấy bạc thoa.
Cướp cạn đầy đường, nguy bỏ mẹ,
Kiêu binh khắp phố, chết ngay cha.
Vô thiên mạt pháp nên đành vậy!
Thế sự bây giờ thật thế a?
Hoài Nguyễn
Vào khoảng 1906 – 1907, Lê Hoan – Tổng đốc Hà Nội, một viên võ quan từng bị giới sĩ phu Bắc Hà ghét vì tội đã đưa giám binh đi đánh Đề Thám. Muốn “xóa” đi điều tiếng ấy và làm dịu lòng dân, ông ta liền cho tổ chức một cuộc thi vịnh Kiều.Theo thể lệ, những học sinh giỏi tham gia cuộc thi thì được cho xuống thuyền đi chơi sông Nhuệ. Ở trong thuyền mấy ngày, mỗi thí sinh phải làm được 20 bài vịnh Kiều, thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm cũng được, kèm theo một bài tựa. Cụ Tam nguyên Yên Đổ (tức nhà thơ Nguyễn Khuyến) và nhà thơ Chu Mạnh Trinh được mời ra chấm thi.Cụ Nguyễn Khuyến rất khó chịu. Ở thế không đừng được, cụ phải nhận lời, tuy nhiên cụ đã thể hiện thái độ này trong hai câu mở đầu bài thi: “Thằng bán tơ kia giở giói ra/ Làm cho bận đến cụ Viên già”. Theo các nhà nghiên cứu thì “thằng bán tơ kia” (tức nhân vật xỏ lá trong “Truyện Kiều”) là ám chỉ Lê Hoan. Y đã giở giói ra cái chuyện thi “làm cho bận đến cụ Viên già”, cụ Viên già ở đây chính là tác giả bài thơ – cụ Nguyễn Khuyến. Và đó chính là lý do để Nguyễn Khuyến viết nên bài thơ “Kiều bán mình” – một bài thơ châm biếm sắc sảo của ông. Còn có một nguồn khác cho rằng hai câu đề Nguyễn Khuyến có ý chửi Hoàng Cao Khải là thằng bán tơ kia “giở giói ra” làm bận lòng cụ Viên già chính là Nguyễn Khuyến phải làm điều mà cụ không muốn.
Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng , hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông là làng Và, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ. Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi (1796-1853), thường gọi là Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (1799-1874), nguyên là con của Trần Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê mạt. Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864-1865) là bạn học ở trường Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên phẫn chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây. Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên. Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.
Lúc này Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1882, quân Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, họ tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã.
Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ.
Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ,”Bạn đến chơi nhà”, và 3 bài thơ hay về thu: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.
Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau . Có bài tác giả viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ngược lại, ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó xác định vì nó rất điêu luyện.
Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuỗm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công.
FB HOÀI NGUYỄN