Đừng lấy máu của đồng bào mình xây “đường vinh quang”, đừng tự hào về một cuộc chiến tranh tương tàn phi nhân đã lùi xa, đừng khoét sâu vào những nỗi đau hàng triệu người vẫn còn rỉ máu.
“Bóng tối không thể xua đi bóng tối, chỉ có ánh sáng mới làm được điều đó. Hận thù không thể xua đi hận thù, chỉ có tình yêu mới có thể làm được điều đó” – Martin Luther King.
48 năm sau chiến tranh, những người “bên thắng cuộc” vẫn “hát trên những xác người”, vẫn tổ chức ngày “Chiến thắng”, ngày “Thống nhất đất nước”, “Giải phóng miền Nam” với lễ hội, bắn pháo hoa, ca múa nhạc hoành tráng. 48 năm sau chiến tranh, hàng triệu người miền Nam vẫn tiếc nuối cuộc sống tươi đẹp mà họ từng có.
Đối với nhiều người miền Nam, 30 Tháng Tư 1975 là ngày Quốc hận, ngày Gãy súng, là Tháng Tư đen với những ký ức tù đày, vượt biển, đau khổ, mất mát cùng cực kể từ khi những chiếc xe tăng Bắc Việt lăn bánh trên đường phố Sài Gòn. Quê hương đã bỏ lại sau lưng, nhưng đối với hàng triệu người Việt tha phương sau ngày “Giải phóng”, quá khứ vẫn còn ám ảnh họ với bao oán hờn. Đã 48 năm qua đi, vấn đề chia rẽ Nam Bắc, với những nỗi đau vẫn còn đó như vết thương đến khi trái gió trở trời lại đau nhức nhối, hành hạ xác thân. Ngày “triệu người vui, triệu người buồn” như lời của ông Võ Văn Kiệt lại là thời khắc để mà cả hai “bên thắng cuộc” lẫn “thua cuộc” đào sâu thêm hố ngăn cách.
Ai cũng có lý lẽ riêng của mình. Phía bên thua cuộc là hơn 20 triệu người dân miền Nam phải trải qua một cuộc bể dâu kinh hoàng. Hàng triệu dân miền Nam trong chốc lát trở thành người vô gia cư trên chính mảnh đất quê hương. Nhà cửa, gia sản bị tước đoạt, cha anh bị tù đày, gia đình phiêu tán, vợ mất chồng, con mất cha. Đối với họ, chiến tranh mấy mươi năm không phải là điều kinh khủng nhất mà cuộc đọa đầy thời hậu chiến mới thực sự man rợ, hãi hùng.
Chính sách trả thù, khủng bố, cô lập của “bên thắng cuộc” đối với các cán binh, viên chức, trí thức, doanh nhân liên quan đến chế độ cũ đã để lại cho ký ức miền Nam những tổn thương không bao giờ phai mờ. Thậm chí, sự phân biệt đối xử vẫn còn đeo đẳng tới con cháu họ cho tới tận hôm nay. Họ có lý do cả về mặt tình cảm lẫn lý trí để từ chối cái gọi là “hòa hợp, hòa giải” chỉ có giá trị khẩu hiệu và đầu môi chót lưỡi. Đã 48 năm, thời gian đủ dài để cho thấy thực tâm của “bên thắng cuộc” là gì. Nước mắt của triệu người Việt ngót nửa thế kỷ đã chẳng thể “lay lòng gỗ đá” và những nguồn lực để xây dựng một đất nước hùng cường từ tro tàn chiến tranh vẫn nghẽn dòng, đứt mạch.
Phía “bên thắng cuộc”, những người đã nắm trọn quyền lực cai trị một quốc gia bằng nhà tù và súng đạn, họ có nỗi lo sợ riêng. Họ sợ sự thực lịch sử, sợ sự dối trá và tội ác trong quá khứ bị phơi bày, sợ một cuộc hồi tố có thể xảy ra khi chế độ hiện thời sụp đổ. Họ sợ một cuộc trả thù bởi hàng triệu người là nạn nhân từ chính sách tàn ác của họ. Họ cũng sợ chính những kẻ là “đồng chí” giựt mất những tài sản khổng lồ mà họ đã đánh đổi lương tri và cả xương máu để chiếm đoạt. Như một sự châm biếm của Lịch sử, sau khi đã đánh cho “Mỹ cút, Ngụy nhào”, những người cộng sản năm xưa lại âm thầm lẫn công khai đưa con cháu họ lưu vong sang chính những quốc gia cựu thù mà họ đã “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” và hy sinh cả triệu thanh niên tuổi hai mươi để đánh đuổi.
Thay vì thực lòng thực hiện một cuộc “hòa hợp, hòa giải” để xoa dịu vết thương sau cuộc binh lửa tương tàn thì đảng cộng sản vẫn kiên định đường lối cai trị bằng bạo lực và tuyên truyền dối trá. Chiến tranh đã đi qua nhưng Cách mạng thì vẫn chưa thôi thét gào. Thứ chủ nghĩa sắt máu mà người cộng sản tôn vinh dường như luôn cần lòng hận thù, hiềm khích, sự tham lam của con người để dung dưỡng.
Trong khi kêu gọi về một cuộc “hòa giải dân tộc” để thu hút hàng trăm tỷ đôla từ cộng đồng kiều dân Việt Nam ở hải ngoại về đầu tư trong suốt mấy mươi năm thì nhà cầm quyền Việt Nam vẫn tiếp tục đập phá mồ mả những người lính VNCH đã vùi sâu ba tấc đất. Mới đây thôi, họ còn phá tan ngôi miếu nhỏ tưởng nhớ Đại tá Nguyễn Đình Bảo trên đồi Charlie. Họ vẫn truy cùng đuổi tận những người thương phế binh ở vườn rau Lộc Hưng, phá tan căn nhà tạm là nơi chốn cuối đời của họ. Tại sao lại có thể ác độc như thế? Bởi vì, thể chế này luôn cần những “thế lực thù địch” để tạo nên cái gọi là sự chính danh cho sự tồn tại cỗ máy đàn áp khổng lồ và tàn bạo của bộ máy cai trị.
Tổng thống Abraham Lincoln từng nói một câu bất hủ “Khi viên đạn xuyên vào một người lính, dù thuộc bên nào đi nữa, thực ra nó đã xuyên vào trái tim của một người mẹ”. Chính tư tưởng bác ái và nhân văn đó đã thấm đẫm trong bản tuyên ngôn của một quốc gia, một nhà nước thực sự “do dân và vì dân”. Người Mỹ đã kết thúc một cuộc chiến Nam Bắc tương tàn bằng việc làm tôn vinh tử sỹ cả hai miền như những anh hùng, thực tâm tôn trọng những người lính miền Nam. Họ đã xóa bỏ thù hận và cùng hướng về một nước Mỹ chung nhất bằng tinh thần Bình đẳng, Bác ái. Cả hai bên đều chiến thắng. Dân tộc và Tổ quốc đã chiến thắng. Nước Mỹ đã trở nên hùng cường hơn tất cả vì có những lãnh đạo tử tế, có một thể chế nhân bản như vậy.
Còn với Việt Nam, thể chế cộng sản đã kết thúc cuộc chiến của 48 năm trước bằng sự thù hận và phân biệt dai dẳng. Điều đó đã biến dân tộc Việt Nam trở thành dân tộc thất bại, một quốc gia thất bại. Khi đến nghĩa trang Trường Sơn hay nghĩa trang Biên Hòa, chứng kiến khung cảnh rợn ngợp, bi tráng của cái gọi là “núi xương, sông máu”, ai còn lương tri và suy nghĩ thì không thể nào không đau đớn.
Tất cả họ, những chiến sỹ đã nằm dưới mộ phần, tuy khác nhau chiến tuyến, chẳng phải cũng cùng chung một lý tưởng muốn Độc lập – Tự Do – Hạnh Phúc cho dân tộc hay sao? Tất cả họ đều là người Việt Nam, không phải là người Mỹ, người Tàu mà đều là máu xương của một dân tộc. Bốn triệu người đã nằm xuống ở cả hai miền Nam Bắc cho một cuộc đối đầu sinh tử của hai hệ tư tưởng, giữa người cộng sản miền Bắc và những người bảo vệ giá trị Tự do ở miền Nam. Để rồi cái giá phải trả cho một thứ Hoà Bình và Thống Nhất hôm nay là một dân tộc bị phụ thuộc phương Bắc, Dân quyền mất Tự Do và Hạnh Phúc chỉ là bến bờ ảo vọng.
Không cần cách mạng thét gào nữa. Hãy ngưng tổ chức những lễ hội kỷ niệm ngày chiến thắng, ngưng xây dựng những tượng đài ngàn tỷ cho một quá khứ đau thương, mất mát. Những người “bên thắng cuộc” đừng tiếp tục ngạo nghễ, giẫm đạp và cướp bóc. Hãy biết cúi xuống để nghe được tiếng kêu khóc của người dân. Hãy tử tế hôm nay và thành thật gieo những hạt mầm nhân ái cho ngày mai.
Bởi lẽ, không có một thể chế, triều đại nào có thể muôn năm, chỉ còn lòng nhân ái là mãi mãi được vinh danh. Và khi đó, khi người Việt không phân biệt Nam Bắc, không phân biệt “bên thắng cuộc” hay “thua cuộc”, sẽ biết nói lời yêu thương thành thật. Khi đó, đất nước này mới thực sự có thể hướng đến một tương lai tươi sáng, hạnh phúc và cường thịnh. Khi đó, đất nước này mới thực sự bắt đầu một cuộc tái sinh.