CHIẾN THẮNG THÁI HƯNG (Bảo Định)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Thái Hưng là một xã công giáo di cư. Đồng bào miền Bắc từ hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên phải rời bỏ quê cha đất tổ, di cư vào Nam tìm Tư Do sau hiệp định đình chiến Genève năm 1954, được Chính phủ Tổng Thống Ngô Đình Diệm đưa về đây tái định cư. Nhờ ruộng đất màu mỡ, tôm cá đầy sông, chẵng mấy chốc, người dân đã có cuộc sống sung túc, có của ăn của để, hơn hẳn hồi còn ở quê nhà. Nhưng quê hương ta luôn luôn vẫn đẹp hơn cả. Lòng hoài vọng cố hương thể hiện qua việc đặt tên cho xã. Đồng bào đã lấy hai chữ đầu của chữ Thái Hưng và Hưng Yên, ghép lại thành tên Thái Hưng.

Nhưng vào một đêm mùa Hè năm 1974, trong lúc dân làng đang sống hạnh phúc yên lành thì Cộng quân với chiến thuật cố hữu là tiền pháo hậu xung, chúng nã đạn pháo đủ loại, từ súng cối 61ly, 82ly, đến các loại pháo tầm xa 120ly,130ly và hỏa tiển 122ly lên đầu người dân vô tội. Sau các đợt pháo tàn bạo, là cuộc tiến quân bằng quân bộ chiến. Các đơn vị của Trung đoàn 165 thuộc Sư 7/CSBV đã tấn công vào xã, mà chúng coi như là một cứ điểm quân sự của QLVNCH. Tiểu đoàn Địa Phương Quân tỉnh Biên Hòa với nhiệm vụ an ninh lãnh thổ, trước một đối thủ hùng hậu và quân số áp đảo, bị dồn về cố thủ một góc ở đầu xã, dựa lưng vào mé sông để bảo toàn lực lượng.

Lúc này Tiểu đoàn 2/43 của tôi đang hoạt động hành quân vùng Tân Uyên thuộc Biên Hòa và Bình Cơ – Bình Mỹ thuộc Bình Dương, được lệnh cấp tốc mở cuộc hành quân giải tõa. Đơn vị được giao nhiệm vụ làm nổ lực chính, vượt sông Đồng Nai, đánh chính diện vào mục tiêu.

Đoàn quân xa đưa Tiểu đoàn đến bến đò xã Đại An, bờ Nam sông Đồng Nai. bên kia sông là xã Thái Hưng thuộc quận Công Thanh, tỉnh Biên Hòa, hiện đang bị Cộng quân chiếm cứ. Đơn vị CSBV là Trung đoàn 165, là đơn vị tôi đã từng gặp trong trận Bố Lá thuộc tỉnh Bình Dương vào hồi tháng 8 năm 1973. Lần đó chúng lập hệ thống kiềng chốt khá kiên cố trên con đường lưu thông giữa thị xã Phú Cường và quận Phú Giáo. Nhưng sau 5 ngày giao tranh, đơn vị tôi đã nhổ hết chốt, phá hệ thống kiềng của chúng, gây chúng thiệt hại đáng kể, vã đánh đuổi bọn chúng vào tận rừng sâu. Lần này lại gặp chúng. Đúng là “oan gia ngõ hẹp!”

Quân đoàn cung cấp cho đơn vị 15 chiếc xuồng đổ bộ. Mỗi chiếc chở được một Tiểu đội. Như vậy mỗi đợt có thể vượt sông cả một Đại đội. Lợi dụng lúc trời nhá nhem tối, tôi cho ba chiếc xuồng chở Trung đội đầu tiên vượt sông, với nhiệm vụ lập đầu cầu cho cuộc vượt sông toàn đơn vị. Bên kia sông là nơi TĐ/ĐPQ đang co cụm.

Khi những chiếc xuồng qua được nửa giòng sông, sắp tiến vào bờ để đổ bộ, thì nhiều loạt súng AK-47, B-40, B-41 và đại liên của giặc đồng loạt nổ, nhắm vào ba chiếc xuồng đang rẽ sóng. Một chiếc trúng đạn B-40 rồi lật chìm, hai chiếc kia cũng trúng đạn, bị thủng nhiều chổ, đành phải quay trở lại. Các chiến sĩ trên chiếc xuồng bị bắn chìm, chới với giữa giòng sông. Một số được cứu thoát, nhưng vị Trung sĩ Tiểu đội trưởng và hai đồng đội bị nước cuốn trôi theo giòng sông, về đến tận thành phố Biên Hòa. Khi được vớt lên, họ đã trở thành người thiên cổ! Đó là những chiến sĩ anh dũng của TĐ2/43 đầu tiên hy sinh trong trận tái chiếm Thái Hưng.

Tôi sắp đặt chuyến vượt sông lần thứ hai. Thời điểm là lúc quá nửa đêm, lúc trăng vừa lặng. Đúng 12 giờ đêm, tôi cho lệnh dàn pháo 8 khẩu 105ly từ căn cứ hỏa lực bắn tới tấp lên mục tiêu, và dọc theo bờ sông, nơi tôi sẽ cho quân đổ bộ. Tôi yêu cầu vị Thiếu tá TĐT/ĐPQ cho mở những cuộc phản công giả, và toàn bộ Tiểu đoàn đồng loạt nổ súng. Đúng 12 giờ 30 khuya, ĐĐ2 của Trung úy Võ Văn Mười bắt đầu cuộc vượt sông. Lo âu và hồi hộp! Nhưng toán tiền quân của Mười đã đặt chân được lên bờ, đã lập được đầu cầu. Tiểu đoàn hoàn tất cuộc vượt sông theo đúng kế hoạch.

Vừa đặt chân lên bờ, tôi liền tìm gặp vị TĐT bạn để hiểu rõ hơn về địch tình. Sau đó tôi cho lệnh mở cuộc phản công ngay. Đơn vị bắt đầu cuộc đánh đêm. Đánh đêm là sở trường của VC. Lạ địa thế, đêm tối khó nhận được nhau, nhưng các ĐĐT giàu kinh nghiệm chiến trường, đã hướng dẫn đơn vị mình đánh đuổi địch, tiến công như vũ bão. Bị đánh bất ngờ, địch phản ứng yếu ớt. Phần lớn bọn chúng tung hầm tìm cách tháo chạy về hướng Bắc. Nhiều ổ kháng cự bị tiêu diệt. Chúng đã “bỏ của chạy lấy người!”Quân bạn tịch thu nhiều vũ khí, trong đó có một súng cối 61ly, và nhiều quân trang quân dụng. Đến lúc trời mờ sáng, quân bạn đã làm chủ Làng 1 và một phần của Làng 2 (xã có 4 làng). Quân bạn cũng đã chiếm được khu nhà thờ. Tôi đặt BCH/TĐ trong khuôn viên nhà thờ của Cha xứ. Tại đây, một trái hỏa tiển 122ly suýt đã lấy mạng sống của tôi, nếu không có bức tường nhà thờ che chở. Viên đạn nổ bên kia bức tường, tôi bên này, bức tường đổ sập, tôi đã đứng dậy trong đống đổ nát.

Ngày N+1, Tiểu đoàn tiến công chiếm nốt Làng 2. Trận chiến khá gay go. Tôi đã phải xử dụng nhiều pháo binh và nhiều phi vụ ném bom để tiêu diệt những ổ súng cộng đồng. Có điều thuận lợi là từ khi giặc đến, dân làng đã tìm cách tản cư, lánh nạn qua bên kia sông. Các Cha xứ cũng đến gặp Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo để yêu cầu cứ việc xử dụng bom đạn tối đa hầu tiết kiệm xương máu của quân sĩ, và mau đánh đuổi giặc ra khỏi làng. Thái Hưng lúc này là “vườn không, nhà trống”. Hằng ngày dân làng tụ tập tại bến đò xã Đại An bên kia sông nghe ngóng tin tức. Đồng bào nấu những nồi xôi, nồi khoai lang, gửi qua sông cho các Chiến sĩ Cộng hòa ngày đêm diệt giặc. Đúng là tình quân dân như cá với nước!

Ngày N+2, nhiều phóng viên chiến trường đến mặt trận, có một số là phóng viên ngoại quốc. Trong đó có phóng viên của hãng UPI. Anh này trước khi từ giả, đã chụp cho tôi một tấm hình để kỷ niệm. Đó là tấm hình tôi ưng ý nhất, và post lên dưới đây. Anh Nguyễn Cầu, thuộc đài truyền hình Quân đội, đã theo sát tôi từ ngày đầu của trận chiến. Anh rất gan dạ, bò sát theo toán quân khi đánh chốt địch. Anh đã quay được cận cảnh, cảnh quân ta và địch giằng co khẩu thượng liên 12ly7 tại ổ kháng cự nằm ở phía Tây Làng 2. Ngoài khẩu thượng liên12ly7 ta đã giành được của địch, ta còn tịch thu nhiều vũ khí các nhân, trong đó có một súng cối 61ly và hai máy truyền tin Trung cộng. Những thước phim sống động của anh được thêm cảnh đổ nát của 11 nhà thờ và nhà nguyện trong số 13 cái của toàn xã bị hư hại, cảnh dân làng vui mừng trở về làng cũ xây dựng lại cuộc sống sau trận chiến. Cuốn phim nhựa dài 23 phút, có tựa đề “TRỞ VỀ LÀNG CŨ”. Cuốn phim được trình chiếu cho Phái đoàn Liên minh Á châu chống Cộng do Bác sĩ Phan Huy Quát làm Chủ tịch, khi đến viếng thăm tỉnh Biên Hòa vào cuối năm 1974, và tôi hân hạnh được mời tham dự buổi trình chiếu hôm đó. Cuốn phim cũng đã được chiếu lại nhiều lần trên đài truyền hình Quân đội trong những ngày cuối Tháng Tư Đen.

Ngày N+3, đơn vị tôi đã hoàn toàn làm chủ trận địa. Phần lớn Cộng quân đang cao chạy xa bay vào rừng sâu. Chúng chỉ để lại vài ổ kháng cự nhỏ. Buổi trưa hôm đó,ngay khi tiếng súng truy kích địch còn nổ dòn, Đại tá Trung đoàn trưởng Lê Xuân Hiếu đã hướng dẫn Thiếu tướng Tư lệnh SĐ18BB Lê Minh Đảo, và Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn III Phạm Quốc Thuần đến thăm trận địa khói súng vẫn còn nghi ngút, xác giặc vẫn còn nằm rải rác đó đây. Đến chiều tôi đã có thể cho phép dân làng “TRỞ VỀ LÀNG CŨ”như tựa đề của cuốn phim do anh Nguyễn Cầu thực hiện.

Bảo Định