Các Chiến Sĩ Thủy Quân Lục Chiến – Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang chuẩn bị hành quân.
Trực thăng võ trang của QL VNCH đang bắn vào các vị trí việt cộng tại An Lão, Bình Định năm 1972
Trực thăng của QL VNCH chuẩn bị đổ quân tại chiến trường Bình Định năm 1972
Các Chiến Sĩ Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên Thủy Quân Lục Chiến VNCH tại mặt trận An Lão, Bình Định, năm 1972
Phù hiệu Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên Thủy Quân Lục Chiến QL VNCH
1. Tình hình chung
Sau khi quân đội làm cuộc đảo chánh lật đổ chính quyền Ngô Ðình Diệm, tình hình an ninh và chiến sự tại miền Nam Việt Nam đã xấu lại càng xấu hơn. Các tướng lãnh cầm đầu guồng máy cai trị không có khả năng chính trị mà còn quá tham vọng về ngôi vị lãnh đạo đã gây ra chia rẽ. Vấn đề phe nhóm kình chống nhau đã làm cho quân đội suy yếu hẳn đi, không còn tham gia tích cực vào các cuộc hành quân tiểu trừ bọn cộng phỉ xâm lược như trước nữa.
Thêm vào đó là việc hủy bỏ chính sách Ấp Chiến Lựợc có từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm để thay vào bằng Ấp Tân Sinh, khiến cho các vùng nông thôn rơi dần vào sự kiểm soát của bọn cộng phỉ ngày cũng như đêm. Ðặc biệt là tại miền Trung, thuộc Quân Khu II, chính quyền và quân đội chỉ còn kiểm soát được các quận lỵ và các làng xã nằm ven quốc lộ và tỉnh lộ. Các quận lỵ ở vùng cao nguyên như Dakto, Tân Cảnh đã bị đánh chiếm.
Trước tình hình đó, một Chiến Đoàn của Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, lực lượng Tổng Trừ Bị của Bộ Tổng Tham Mưu, được lệnh tăng phái cho Sư Đoàn 22 Bộ Binh của Quân Đoàn II mà Bộ Chỉ Huy đóng tại núi Bà Di, ngoại vi thành phố Quy Nhơn. Chiến đoàn vừa mới được thành lập theo nhu cầu nhiệm vụ chiến thuật, do Trung Tá Nguyễn Thành Yên chỉ huy, gồm có 2 Tiểu Đoàn tác chiến 1 và 2 cùng một Pháo Đội 75 ly. Tiểu Đoàn 1 do Thiếu Tá Tôn Thất Soạn chỉ huy, và Tiểu Đoàn 2 do Thiếu Tá Hoàng Tích Thông đảm trách. Pháo Đội 75 ly gồm 4 khẩu do Trung Úy Ðoàn Trọng Cảo làm Pháo Đội Trưởng.
Vào tháng 4/1965 Chiến Đoàn di chuyển từ phi trường Tân Sơn Nhứt ra Quy Nhơn bằng máy bay C-123. Sau đó tới Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB bằng quân xa, nhận được lệnh xong Chiến Đoàn tiếp tục di chuyển tới quận lỵ Bồng Sơn để chuẩn bị tham gia cuộc hành quân giải tỏa xã Tam Quan ở về phía Bắc quận lỵ
2. Tình hình an ninh và địa thế trong khu vực hành quân
Quận lÿ Bồng Sơn nằm trên quốc lộ 1, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 60 cây số về phía Bắc. Ðây là một quận lÿ khá trù phú và cũng là đầu mối con đường vào xã An Lão để đi lên cao nguyên Kon Tum, nên rất quan trọng về mặt chiến lược và chiến thuật.
Do ảnh hưởng của tình hình chính trị hỗn loạn sau 1963 nên vùng phía Bắc của Bình Ðịnh, tiếp giáp với tỉnh Quảng Ngãi thuộc Quân Khu I, lại càng bị bọn cộng phỉ lấn chiếm thêm. Chúng cô lập quận lÿ Bồng Sơn và cắt đứt hoàn toàn quốc lộ 1. Trong tình hình đó, Sư Đoàn 22 BB cũng như Tiểu Khu Bình Ðịnh hoàn toàn bất lực, vì không đủ lực lượng để mở các cuộc hành quân quy mô chống lại các đơn vị chủ lực của sư đoàn 3 sao vàng cộng phỉ hoạt động ở phía Bắc Bình Ðịnh, và các lực lượng địa phương, du kích thổ phỉ. Ðịa thế vùng này hữu lợi cho bọn cộng phỉ trong việc phòng ngự và bất lợi cho ta trong việc phản công.
Từ quận lÿ Bồng Sơn tới ấp An Ðỗ (Ðồi 10) giáp ranh với quận Ðức Phổ tỉnh Quảng Ngãi (Quân Khu I), về phía Tây là đồi núi cao rừng dừa bát ngát. Về phía Ðông là làng mạc được bao quanh bởi những vườn dừa kéo dài ra tận bờ biển. Tại xã Tam Quan, mục tiêu của cuộc hành quân, cũng nằm trên quốc lộ, cách quận lÿ Bồng Sơn khoảng 7-8 cây số, nằm gọn trong các hàng dừa cao bao quanh nên rất khó khăn cho việc tấn công. Từ xã Tam Quan theo quốc lộ 1 đến ấp An Ðỗ (Ðồi 10) là đồng ruộng trống trải, nhất là về phía Tây. Chạy song song với quốc lộ 1 là con đường sắt nằm về phía Ðông.
Theo tin tức tình báo ghi nhận thì lực lượng của sư đoàn 3 sao vàng cộng phỉ vẫn còn đang nằm ẩn ở rặng núi phía Tây để chờ thời cơ thuận lợi để chiếm quận lÿ Bồng Sơn, đang được các đơn vị của 1 Trung Đoàn thuộc Sư Đoàn 22 BB do Thiếu Tá Long tự Thìn chỉ huy. Còn các lực lượng địa phương và du kích trấn giữ tại các xã ấp mà chúng chiếm được.
3. Diễn tiến hành quân:
A. Nhiệm vụ
– Chiến đoàn Thủy Quân Lục Chiến sẽ giải tỏa xã Tam Quan, đồng thời quốc lộ 1 nối liền từ Bồng Sơn đến ấp An Ðỗ – đèo Bình Ðê giáp ranh quận Ðức Phổ tỉnh Quảng Ngãi (Quân Khu I).
– Duy trì an ninh và giúp quận thiết lập lại chính quyền xã Tam Quan và các ấp phụ thuộc.
B. Quan niệm hành quân
Chiến đoàn áp dụng chiến thuật trực thăng vận từ sân bay Bồng Sơn xuống bãi đáp phía Nam ấp An Ðỗ và đánh chiếm Ðồi 10. Thiết lập căn cứ hỏa lực để yểm trợ tiến chiếm xã Tam Quan và giải tỏa quốc lộ 1 tới quận lÿ Bồng Sơn.
* Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến
– Giai đoạn 1: Tiểu Đoàn 2 xuất phát lúc 8 giờ sáng, sử dụng trực thăng H-21 đổ quân xuống bãi đáp Alfa cách ấp An Ðỗ 100 thước về phía Nam. Tiến chiếm ấp và đồi 10.
– Giai đoạn 2: Dưới sự yểm trợ của Pháo Binh, Tiểu Đoàn tiến quân hai bên quốc lộ và thiết lộ, đánh chiếm mục tiêu là xã Tam Quan cách xa 2 cây số về phía Nam.
– Giai đoạn 3: Từ xã Tam quan, Tiểu Đoàn tiếp tục tiến quân về phía Nam để giải tỏa quốc lộ 1 và bắt tay với đơn vị trú đóng tại Bồng Sơn.
– Giai đoạn 4: Nới rộng và bảo vệ vòng đai an ninh xã Tam Quan, trợ giúp chính quyền xã tái cũng cố.
* Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến
Ðổ quân tiếp theo Tiểu Đoàn 2 xuống bãi đáp Alfa.
– Giai đoạn 1: Tiến quân lục soát chung quanh ấp An Ðỗ và chiếm giữ đèo Bình Ðê (ranh giới giữa Quân khu I và Quân khu II).
– Giai đoạn 2: Thay thế Tiểu Đoàn 2 chiếm giữ ấp và đồi 10, thiết lập căn cứ hỏa lực bảo vệ Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn và Pháo Đội tại Ðồi 10. Thành phần trừ bị, sẵn sàng tiếp ứng cho Tiểu Đoàn 2 khi tình hình cần đến.
* Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn và Pháo Đội Thủy Quân Lục Chiến:
– Giai đoạn 1: Cùng với Tiểu Đoàn 1 đổ quân xuống bãi đáp Alfa. Pháo đội được trực thăng câu thẳng tới chân đồi 10, sau đó di chuyển lên đỉnh đồi.
– Giai đoạn 2: Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn có thể lưu động theo các Tiểu Đoàn khi tình hình đòi hỏi. Pháo đội sẵn sàng yểm trợ Tiểu Đoàn 2 tiến chiếm xã Tam Quan và Tiểu Đoàn 1 hoạt động trong vùng
C. Diễn tiến hành quân
* Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến
– Giai đoạn 1: một đại đội dưới sự yểm trợ của trực thăng võ trang, đổ quân xuống bãi đáp Alfa lúc 8 giờ 15, vô sự, không có phản ứng của địch. Tiến chiếm bờ ấp An Ðỗ và giữ an ninh bãi đáp. Các Ðại Đội còn lại tiếp tục đổ quân và hoàn tất lúc 12 giờ trưa. Sau đó Tiểu Đoàn chiếm giữ ấp An Ðỗ và đồi 10 an toàn.
– Giai đoạn 2: Tiểu Đoàn 2 rời khu vực chiếm giữ lúc 3 giờ chiều, sau khi Tiểu Đoàn 1 và Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn cùng Pháo Đội hoàn tất đổ quân, để tiến về mục tiêu ấn định là xã Tam Quan. Tiểu Đoàn tiến quân bằng hai cánh theo quốc lộ 1: Cánh A gồm Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và 2 Ðại Đội ở phía Ðông. Cánh B với 2 Ðại Đội còn lại do Tiểu Đoàn Phó chỉ huy ở phía Tây. Trên đường tiến quân không gặp sức kháng cự nào của địch vì địa thế trống trải, quan sát dễ dàng. Nếu có chạm địch là lúc đột nhập vào xã Tam Quan, nhưng kết quả vô sự. Tình hình dân chúng, tuy có thưa thớt nhưng vẫn bình tĩnh làm ăn, đi lại không có vẻ gì là sợ sệt.
Tiểu đoàn tiến vào trung tâm xã lúc 4 giờ chiều, Bộ Chỉ Huy tạm đóng quân tại nhà hộ sinh (đã bỏ trống từ khi việt cộng chiếm Tam Quan). Một Ðại Đội bố trí chung quanh để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn. Ba Ðại đội còn lại tiếp tục tiến quân về phía Nam. Ðại đội 3 Thủy Quân Lục Chiến do Ðại Úy Nguyễn Năng Bảo chỉ huy, tiến quân dọc theo quốc lộ 1 về phía Bồng Sơn. Ðại Đội 4 do Ðại Úý Ngô Văn Ðịnh chỉ huy, tiến quân ở phía Tây quốc lộ và chiếm giữ một cao địa ở phía Tây Nam ấp Phụng Dư (cách Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn khoảng 7-8 trăm thước). Ðại Đội 1 do Ðại Úy Phạm Nhã chỉ huy tiến quân về phía sau ấp Phụng Dư và bố trí ngừng quân lúc 6 giờ chiều.
Trên đường tiến quân, Ðại Đội 3 đã chạm địch ở phía Tây Nam ấp Phụng Dư khoảng 400 thước, phải ngừng lại và tất cả được lệnh đóng quân đêm. Khi được báo cáo Ðại đội 3 chạm địch thì Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn quyết định rời vị trí tới địa điểm đóng quân của Ðại Đội 1 lúc 6 giờ 30 chiều để quan sát tình hình. Riêng Ðại Đội 2 của Ðại Úy Hai (tức Hai Chùa) kiêm nhiệm chức vụ Tiểu Đoàn Phó đóng quân tại chỗ. Tình hình yên tĩnh cho tới quá nửa đêm.
Lúc 1 giờ khuya, bọn cộng phỉ áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung. Khởi đầu là hàng loạt súng cối 82 và 60 ly được bắn tập trung vào trung tâm vị trí đóng quân. Một trái đạn mở màn đã nổ ngay đầu hồi nhà, gần ngay chỗ Tiểu Đoàn Trưởng và cố vấn Mỹ ngủ. Mảnh đạn làm xì hơi tấm nệm cao su lót nằm nhưng không gây thương tích cho cả hai. Tiếp đó súng của hai bên nổ ran, hướng tấn công chính của địch là từ phía Tây tới.
Ấp Phụng Dư là một ấp nhỏ, lèo tèo vài căn nhà lá nằm dưới các hàng dừa cao vút. Với địa thế không lấy gì làm thuận lợi cho việc phòng thủ nên Ðại Đội đã cố gắng làm một phòng tuyến với giao thông hào bao quanh, dù đã quá mệt nhọc. Do đó hàng đợt tấn công xung phong của địch đều liên tiếp bị đánh bật ra.
Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đã liên lạc báo cáo với Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn và điều chỉnh Pháo Binh từ đồi 10 bắn yểm trợ. Có điều cần biết là súng 75 ly chỉ bắn xa tối đa là 9 cây số nên chỉ yểm trợ được ở phía Bắc vị trí mà thôi. Ðể bù vào chỗ thiếu sót đó, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn ra lệnh cho Ðại Đội 4 ở phía Tây Nam xử dụng cối 60 ly và đại liên 30 bắn yểm trợ về sườn phía Tây của tuyến phòng ngự, và cũng là mũi tấn công chính của địch. Ðồng thời cũng ra lệnh cho Ðại Đội 2 ở phía Bắc và Ðại Đội 3 ở phía Nam chuẩn bị di chuyển để tăng viện.
Cuộc tấn công của địch vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và Ðại Đội 1 vẫn tiếp diễn. Hỏa lực địch ngày càng mạnh, kể cả súng cối và hỏa tiễn B.40, B.41 mà địch mới xử dụng ở chiến trường miền Nam, phòng tuyến ta có lúc muốn bị chọc thủng. Trong khi đó thì hỏa lực của ta chỉ bao gồm súng trường M.1, trung liên BAR, đại liên 30, súng phóng lựu, súng cối 81, 60 và 57 ly không giật.
Vào khoảng gần sáng thì Ðại Đội Trưởng Ðại Đội 1 báo cáo là đạn gần cạn và yêu cầu Tiểu Đoàn tăng cường Tiểu đội bảo vệ của Bộ Chỉ Huy và khẩu đại liên 30 sang phòng tuyến phía Tây. Tình hình có vẻ hơi nao núng mà cường độ tấn công của địch vẫn không sút giảm. Vào lúc rạng sáng thì Ðại Đội 3 của Ðại Úy Bảo tiến tới vị trí của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và Ðại Đội 1. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn ra lệnh cho Ðại Đội 3 cùng với Ðại Đội 1 phản công vượt qua phòng tuyến tiến đánh địch. Cùng lúc thì Ðại Đội 4 cũng được lệnh tiến quân vòng lên phía Tây Bắc để chận địch rút lui. Ðại Đội 2 ở phía Bắc tiến theo hướng Tây Nam để khóa chặt vòng vây.
Trước khí thế phản công mãnh liệt của ta, địch rút chạy, nhưng chỉ có một số ít thoát được, còn lại đa số chạy ẩn núp vào một ruộng mía ở trước phòng tuyến và một giao thông hào từ hướng Tây chạy tới mà chúng xử dụng để tiến sát vào vị trí đóng quân. Tất cả đã không chịu đầu hàng và đều bị hỏa lực của ta tiêu diệt gọn. Khi trời vừa sáng rõ thì trận đánh chấm dứt. Quan sát phòng tuyến thì có những thi thể Việt cộng nằm chết trước phòng tuyến khoảng 3-4 thước, còn dưới giao thông hào và ruộng mía thì địch nằm chết ngổn ngang.
Kết quả sau 5 tiếng đồng hồ chiến đấu dũng cảm, trước sức tấn công dồn dập của Trung đoàn thuộc sư đoàn 3 sao vàng cộng phỉ, Tiểu Đoàn, đặc biệt là Ðại Đội 1 Thủy Quân Lục Chiến đã chiến thắng vô cùng xuất sắc, chỉ bằng hỏa lực của đơn vị và dưới sự yểm trợ duy nhất và ít hữu hiệu của Pháo Binh Chiến Đoàn vì tầm xa hạn chế và sức công phá không đủ mạnh. Một tiếng đồng hồ sau khi trận đánh chấm dứt thì Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn và Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến (-) cũng được điều động tới. Sau đó thì Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB khi đó là Chuẩn Tướng Nguyễn Thanh Sằng tới thăm. Vào buổi chiều thì Tướng Nguyễn Hữu Có, Tư Lệnh Quân Đoàn II từ Pleiku xuống quan sát chiến trường rồi phát biểu là một đơn vị đóng quân ở một vị trí như vậy mà chiến thắng được địch quả là đáng khen.
Tổng kết trận đánh thì bọn cộng phỉ đã thất bại thảm hại và bị loại ngay tại trận khoảng 150 tên cộng phỉ bỏ xác tại trận, bắt sống trên 10 tên, vũ khí tịch thu khoảng 100 khẩu đủ loại, bao gồm cá nhân và cộng đồng. Về phía Tiểu Đoàn thì sự thiệt hại hầu như quá nhẹ so với địch, điều mà không ai có thể tin được, chỉ có 4-5 binh sĩ bị tử thương, số bị thương khoảng 10 người, vũ khí bảo toàn.
Sau khi thu dọn chiến trường, các Ðại Đội được tiếp tế đạn dược đầy đủ, các binh sĩ bị thương và tử thương được đưa về bệnh viện Quy Nhơn thì Tiểu đoàn được phối trí lại để sẵn sàng ứng phó với một cuộc tấn công khác của địch để chúng lấy lại xác của những tên cộng phỉ đã chết mà đồng bọn không mang đi được.
Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn vẫn trú đóng với Ðại Đội 1, nhưng được tăng cường phòng thủ bởi Ðại Đội 2. Còn hai Ðại Đội 3 và 4 di chuyển về vị trí cũ để chuẩn bị làm nhiệm vụ kế tiếp là giải tỏa quốc lộ về tới Bồng Sơn. Sau chiến thắng này, tinh thần binh sĩ lên rất cao. Ðúng như dự đoán, gần nửa đêm thì địch tấn công lại, nhưng lần này cường độ không mạnh lắm trước sự phòng thủ chặt chẽ của Tiểu Đoàn. Khoảng 15-20 phút tấn công không kết quả, địch vội vã rút lui.
Về sau theo tin tức ghi nhận được thì đợt tấn công sau địch chỉ có mục đích duy nhất là lấy lại xác đồng bọn, trong đó có một vài cán bộ chỉ huy cao cấp. Những ngày sau đó, Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến hoàn tất nhiệm vụ kiểm soát xã Tam Quan và giải tỏa quốc lộ 1 từ quận lÿ Bồng Sơn tới đèo Bình Ðê và duy trì an ninh yểm trợ chính quyền cũng cố lại cơ sở xã ấp. Từ đó cho đến ngày Chiến Đoàn rời khỏi khu vực hành quân thì không còn một trận đánh quy mô nào xảy ra nữa.
Nhận định
Sau khi trận đánh kết thúc, kiểm điểm lại thì thấy sự chiến thắng của ta rất đáng khích lệ, vì sự thiệt hại của Tiểu Đoàn rất nhẹ, trong khi địch bị thiệt hại nặng nề. Trung đoàn sao vàng của bọn cộng phỉ gần như tê liệt thảm hại, phải mất một thời gian dài mới hoạt động lại được. Sự chiến thắng này không những làm cho tinh thần chiến đấu của quân nhân trong binh chủng lên cao mà còn tạo cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa được tin tưởng hơn trong lúc tình hình an ninh của toàn lãnh thổ miền Nam đang ở trong tình trạng bết bát qua các trận: Bình Giả (thuộc tỉnh Phước Tuy – Quân Khu 3) vào cuối năm 1964, trận chiếm lại Tân Cảnh đưa tới việc mất quận lÿ Dakto, đồn Ðức Cơ thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt ở biên giới Việt Miên, quận Phú Bổn bị bao vây cô lập và 2 tỉnh lộ: 19 nối liền Pleku với Quy Nhơn, 22 nối liền Ban Mê Thuột với Nha Trang bị cắt đứt… Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói chung và Tiểu Đoàn 2 nói riêng đều đã có mặt trong các cuộc hành quân giải tỏa đó.
Một yếu tố không kém phần quan trọng đã đem lại sự chiến thắng là tình báo địch theo dõi hoạt động của Tiểu Đoàn không chính xác. Chúng yên trí là chỉ có một Ðại Đội đóng quân đêm ở ấp Phụng Dư, chứ không theo dõi lúc Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn di chuyển tới vị trí của Ðại Đội 1 khi nhận được báo cáo Ðại Đội 3 đã chạm địch. Do đó hệ thống phòng thủ của Ðại đội 1 đã được thay đổi, chủ lực được chuyển qua tuyến phòng ngự ở mặt Tây, nơi có địa hình thuận lợi cho việc tấn công. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và các thành phần yểm trợ như Trung Đội súng cối 81 ly, Tiểu Đội bảo vệ, Tiểu Đội Truyền Tin bố trí về phía Ðông.
Khi địch mở cuộc tấn công, đúng như dự đoán, chúng đã gặp ngay sức kháng cự mãnh liệt của ta, dù đã tung ra nhiều đợt xung phong 4-5 tiếng đồng hồ. Ngoài ra, địch cũng không ngờ các Ðại Đội khác trong kế hoạch phối trí yểm trợ hỗ tương của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn kéo về tiếp ứng, và Ðại Đội 1 đã sử dụng súng cối 60 ly và đại liên 30 bắn vào sườn địch rồi cùng với Ðại Đội 2 khóa chặt đường rút lui về phía Tây của địch, khiến chúng tháo chạy không kịp mang theo đồng bọn chết và bị thương. Một số lớn bị bao vây mà không chịu đầu hàng đã bị hỏa lực ta tiêu diệt.
Qua chiến thắng này cũng như những cuộc đụng độ sau đó, trận đánh tại ấp Phụng Dư xã Tam Quan đầu năm 1965 là một chiến tích đẹp nhất của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói chung cũng như của Tiểu Đoàn 2 nói riêng. Vì vậy Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đã được địch gắn cho danh hiệu Trâu Ðiên, vì mỗi lần đụng độ là Tiểu Đoàn chỉ có tiến tới, bất kể hỏa lực và bố trí phòng ngự kiên cố của địch.
Nói một cách khác là trong thời gian phục vụ cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tôi thấy Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến chưa lần nào chiến bại trước quân thù cả. Riêng cá nhân tôi, trải qua bao nhiêu chiến trận, từ cấp Ðại Đội cho tới Lữ Đoàn, tôi rất hài lòng với trận đánh Phụng Dư của Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến và đó cũng là kỷ niệm đẹp, oai hùng nhất trong cuộc đời quân ngũ của tôi. Xin dành một phút để tưởng nhớ tới những chiến binh đã hy sinh anh dũng trong chiến trận đó. (MX Hoàng Tích Thông/SàiGònTrongTôi)