Tình cờ tôi gặp nhà thơ Lệ Khanh, trong câu chuyện hàn huyên, anh hỏi tôi :
– “Có biết cụ Diệm làm thơ không ?”
– “Tôi chưa nghe nói” ? tôi thành thực trả lời
Anh kể:
– “Cụ Diệm có một bài thơ làm từ năm 1953, Việt Yên muốn nghe tôi đọc cho nghe .
– “Vâng xin anh đọc đi” ? tôi vừa trả lời vừa sửa soạn giấy bút để ghi chép lại .
Anh đọc bài thơ cho tôi chép :
NỖI LÒNG Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông
Hỏi bến: thuyền không, lái cũng không !
Xe muối nặng nề thân vó Ký
Đường mây rộng rãi tiếc chim Hồng
Vá trời lấp biển người đâu tá ?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông!
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi khách, thuở nào trong ?( Chí sĩ ) NGÔ ĐÌNH DIỆM 1953
Mới thoạt nghe bài thơ Lệ Khanh đọc, tự nhiên tôi rùng mình, cảm xúc bài thơ đi thẳng vào tim óc , tôi nhẩm đi nhẩm lại bài thơ, gần như thuộc lòng, Lệ khanh cười :
– còn đây là bài họa của tôi :
Gan vàng đem trải khắp non sông
Quyền rộng chẳng màng, lợi cũng không
Chí quyết dẹp xong bọn cướp nước
Lòng mong quét sạch đám cờ hồng
Tâm hư chói rạng vùng trời Bắc,
Tiết trực sáng ngời chốn biển Đông
Một lũ phản thần mưu giết chúa
Tham tiền nào biết đục hay trong .LỆ KHANH 2003
Lệ Khanh nói tiếp :- “anh Từ Phong cũng có một bài họa, rất tiếc tôi không nhó hết, Việt Yên thử hỏi anh Từ Phong xem .
Từ giả Lệ Khanh, tâm trí tôi luôn ám ảnh bài thơ của cụ Diệm, về đến nhà tôi gọi điện thoại cho anh Từ Phong và xin anh đọc bài họa, anh vui vẻ đọc cho tôi chép qua phone :
Ghé vai gánh vác nửa non sông
Lèo lái Thuyền Nam sóng gió không
Đả thực, giữ gìn bờ cõi Việt ,
Bài phong, tô điểm nước non Hồng
Đêm lo ngăn cản thù phương Bắc
Ngày tính canh chừng giặc bể Đông
Tế thế kinh bang tài xuất chúng
Tiếc thay mầm vạ nẩy từ trong !!TỪ PHONG 7- 7-2003
Và anh nhấn mạnh : Tôi làm bài này đúng ngày 7 tháng 7 năm 2003 cũng là để kỷ niệm ngày cụ Diệm về nước chấp chánh ( mồng 7- tháng 7 ngày Song Thất )
Đêm đó tôi không ngủ và cố dò theo tư tưởng của Cụ Diệm để làm một bài họa . Gần đến nửa đêm thì tôi chợt nảy ra cái ý : tinh thần độc lập của cụ Diệm, nhất định không muốn người Mỹ nhúng tay trực tiếp vào cuộc chiến Việt Nam , thế là tôi hăm hở ngồi ghi chép :
Nỗi lòng trang trải với non sông
Hậu thế ai người có biết không ?
Độc lập nước nhà nêu ý hướng
Tự do dân tộc điểm tâm hồng .
Chí ngăn lũ giắc cuồng phương Bắc
Tài giữ đồng minh vai chủ Đông
Tiết trực tâm hư gương ái quốc
Mai nầy đời gạn đục khơi trong TRẦN VIỆT YÊN 2003
Làm xong bài thơ – thực ra chưa được hoàn chỉnh lắm ? và vội vã gởi cho các thi hữu gần xa để xin nhã hứng họa lại, Cụ Trường Giang là người gởi bài thơ họa đến cho tôi xem sớm nhất :
Thù nhà, nợi nước, gánh non sông
Chưa vững quyền uy bậc cũng không
Quyết chí đánh tan quân mặt trắng
Tận tâm xé nát ngọn cờ hồng
Thanh liêm chỉ một vang Miền Bắc
Chính trực không hai, dội cõi Đông
Khí tiết lăng sương thù khiếp vía
Hiềm vì phản loạn núp bên trong .TRƯỜNG GIANG 10-2003 .
Tiếp theo nhà thơ Hoàng Ngọc Văn cũng gởi bài họa của anh :
Bùi ngùi tấc dạ xót non sông,
Sóng lớn thuyền con, kẻ sĩ không
Xin gửi tấm lòng củng sử ký
Trao về xương cốt với tim hồng
Quốc gia nghiêng ngửa, chèo phò tá ?
Đất nước chênh vênh, tát biển Đông
Nhắm mắt xuôi tay tùy cõi thế
Nguyện cầu dân tộc, đục thành trong .HOÀNG NGỌC VĂN, 2003
Tôi chần chừ chưa muốn viết bài này vội vì còn chờ bài họa của nhiều nhà thơ khác, Trong đó có thi hữu Thiên Tâm vì tôi biết anh rất thích họa thơ những bài Đường luật hay, quả nhiên anh gởi đến tôi không phải một mà tới 2 bài họa . Cái đặc biệt của Thiên Tâm là anh đã ký thác được tâm sự của anh và của cụ Diệm một cách sâu sắc .
MỘT NÉN HƯƠNG LÒNG
MỘT đời tận tụy gánh non sông
NÉN bạc phản thùng, nghiệp hóa không
HƯƠNG ngát nghìn thu, gương chính khí
LÒNG son một thuở dáng linh hồng
THẮP cao ngọn đuốc soi đêm tối
DÂNG tận đài mây gọi gió đông
CHÍ lớn chưa thành, thân dẫu thác
SĨ dân thương tiếc biển, trời trong
THIÊN TÂM 18-10- 03
Và một bài thứ 2 :
CHẠNH LÒNG .Gió uất, mây hờn phủ núi sông
“Tự do, Độc lập??” rứa, buồn không?!
Nhe nanh múa vuốt loài yêu quỷ
Tím ruột bầm gan giống Lạc Hồng
Tuấn kiệt lơ thơ sao buổi sớm
Nhân tài lác đác lá mùa đông
Cứu tinh dân tộc nay đâu vắng
Xao xác chợ đời luận đục trongTHIÊN TÂM
Nhà thơ Tố Nguyên cũng gởi đến cho chúng tôi thưởng lãm bài họa của anh :
NHỚ NGÔ CHÍ SĨChí Sĩ quên mình với núi sông
Vì dân vì nước chẳng hề không
Cộng hòa khai lối giòng Dân Việt
Tiên tổ truyền lưu giống Lạc Hồng
Diệt Cộng bài Phong nạn giặc Bắc
Đồng minh kết hữu tình Tây Đông*
Trời ơi ! Oan nghiệt ai mưu giết
Giữa buổi nhiễu nhương đục lẫn trongTỐ NGUYÊN 19-10-2003
(*) Tây Phương và Đông Nam Á
Trở lại với bài thơ NỖI LÒNG của chí sĩ NGÔ ĐÌNH DIỆM , tôi xin được nêu vài ý nghĩ thô thiển về bài thơ của cụ ,
Thật ra, tôi không phải là người quen bình thơ thiên hạ, gặp bài thơ hay tôi chỉ xin được gọi là họa lại đôi lời hưởng ứng hoặc gởi đến anh em thi văn hữu quen biết để cùng thưởng lãm.Việc xướng họa trong vòng anh em chúng tôi thường hay diễn ra . Hôm nay tôi đánh bạo viết đôi dòng để gọi là nối điêu ý tưởng bậc cao minh .
Theo Lệ Khanh cho biết Cụ Diệm làm bài thơ này từ năm 1953, nếu trí nhớ không đánh lừa tôi thì lúc đó cụ Diệm chưa về nước chấp chánh, cụ còn đang lưu ngụ trong một nhà dòng Thiên Chúa Giáo tại tiểu Bang Misouri (?) Hoa Kỳ .
Thời điểm đó, chiến cuộc Đông Dương đang diễn ra ác liệt, một bên là Việt Minh Cộng Sản với sự trợ giúp cả người và vũ khí của Trung Cộng và Liên sô , bên kia là Quân Đội Liên Hiệp Pháp và Quân Đội Quốc Gia Việt Nam rất non trẻ mà phần thắng đang nghiêng dần về khối Cộng . Hội nghị Genève được hình thành nhằm tìm kiếm hòa bình cho Đông Dương, các chính phủ Quốc gia được thành lập và tham dự hòa đàm Genève, nhưng tốc độ chiến tranh đẩy phe Quốc gia vào thế bị động, các chính phủ lần lượt ra đời ( dường như chính phủ Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu trong Nam kỳ, roiࠣhính phủ của Hoàng Thân Bửu Lộc được Quốc Trưởng Bảo Đại tấn phong ) nhưng xem ra tình thế không có gì sáng sủa,
Người Mỹ với vai trò lãnh đạo khối thế giới Tự Do nóng lòng và muốn can thiệp vào vũng lầy Đông Dương, đang tìm kiếm một khuôn mặt ít chịu ảnh hưởng của người Pháp để ủng hộ , Do những quen biết ông Ngô Đình Diệm có lẽ đã được thăm dò ý kiến về vai trò lãnh đạo, theo tôi chính đó là hoàn cảnh bài thơ NỖI LÒNG được ra đời .
Đọc bài thơ NỖI LÒNG người ta thấy được tinh thần dấn thân của một con người đang muốn xông pha vào thế cuộc ,
Đọc câu thơ thứ nhất “Gươm đàn nữa gánh, quảy sang sông” người ta thấy hình ảnh đầu tiên đập vào mắt người đọc NỖI LÒNG là TỪ HẢI, một nhân vật cái thế anh hùng trong truyền KIỀU của THI HÀO NGUYỄN DU .
Thật vậy GƯƠM ĐÀN NỬA GÁNH, chứng tỏ cái chí của một bậc anh hùng cái thế, “Gươm đàn nữa gánh, non sông một chèo” người muốn tự mình tạo riêng một cõi triều đình, chứ không chịu cúi luồn trong khuôn khổ .
Chỉ 3 chữ ?quẩy sang sông ? đã thể hiện được thái độ hăm hở xốc vác dám dấn bước sang một hoàn cảnh khác của tác giả dù hoàn cảnh đó có như thế nào đi nữa cũng không thối chí nhụt lòng .
Câu thơ thứ 2
“Hỏi bến: thuyền không, lái cũng không,”
Mặc dù hăm hở muốn sang sông, tác giả vấp phải hoàn cảnh thực tế phũ phàng : Muốn sang sông thì phải có thuyền, nhưng thuyền không có mà lái cũng không nốt!!
Nhìn vào hoàn cảnh nước nhà lúc đó con thuyền quốc gia đang bị sóng gió cộng sản vùi dập, mà người đủ tài lèo lái con thuyền cũng không co,?’y gì để sang sông .
Riêng trong trường hợp tác giả lúc đó, dù nóng lòng hăm hở muốn sang sông gánh vác, nhưng thuyền là tổ chức, mà người lãnh đạo cũng chưa có thì làm sao có thể sang sông cho được bây giờ ?!
Hai câu thực
“Xe muối nặng nề thương vó ký,
Đường mây rộng rãi, tiếc chim hồng”
Tác giả mượn điển tích Chu Bá Nhạ để nhìn cơ đồ tổ quốc đang như một chiếc xe ngựa thồ muối ì ạch leo dốc mà thương cho những người đang cố gắng vất vả như con ngựa Ký ( tương truyền là một giống ngựa giỏi, có thể đi xa, thồ nặng được như không )
Nhìn hoàn cảnh nước nhà như thế, mà tiếc cho cánh chim hồng trước không gian bao la của tương lai dân tộc lại không được bay bổng .
Hai câu luận :
“Vá trời lấp biển người đâu tá ?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông”
Trước nghịch cảnh này thử hỏi những người có hoài bão lấp biển vá trời nay đâu cả rồi sao không dấn bước sang sông ?
Dù hoàn cảnh nước nhà đang nghiêng ngửa nhưng nhìn lại triều đình, người ta vẫn ì xèo buôn danh bán tước, vẫn lắ?? bán người mua, mà trong những kẻ mua danh bán tước đó có mấy ai mang hoài bão lấp biển vá trời ? Mấy ai thực lòng vì dân vì nước ? Hay chỉ là những kẻ vì danh chút danh tiếng hão huyền, vì chút lợi ích nhỏ nhen cho bản thân và phe nhóm ?.
Hai câu phá, kết :
“Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi khách thuở nào trong?”
Tác giả một lần nữa nói lên cái ý chí nhập cuộc của mình, không thể chần chừ trước cảnh dầu sôi lửa bỏng, trước cảnh bá tánh toàn dân đang trở thành nạn nhân cho thứ chủ nghĩa Cộng sản bạo tàn , nếu dợi cho lúc bể lặng trời trong mới ra gánh vác thì đâu còn cái dũng của một kẻ sĩ:” kiến giả bất vi vô dũng giã” “Giữa đường thấy sự bất bằng mà tha ?!”
Nếu cứ chần chừ chờ cơ hội thuận tiện thì bao giờ cơ hội mới đến, vì thế phải nhập cuộc, phải sang sông .
Đọc cả bài thơ tôi thấy toát lên cái hào sảng của một kẻ sĩ, dù đang ẩn nhẫn , nhưng quyết chí phải xông pha vào con đường gió bụi phong trần cái hăm hở của một con người nhập thế, dám chấp nhận thử thách khó khăn ,
Có lẽ vì mang tinh thần NHẬP CUỘC đó mà chí sĩ NGÔ ĐÌNH DIỆM sau đó ít lâu đã nhận lời mời của Quốc trưởng Bảo Đại về nước đảm nhận vai trò thủ tướng khi người Pháp đang bị vây khốn Điện Biên Phũ, Cụ về nước để gánh vác trách nhiệm xây dựng một Miền Nam thanh bình no ấm trước một miền Bắc nghèo nàn xác sơ vì chủ nghĩa Cộng sản bóc lột,
Có lẽ vì bản tính chính trực quang minh của cụ Diệm ( Thể hiện qua Quốc huy nền Đệ Nhất Cộng Hòa là Bụi Trúc “Tiết trực tâm hư”) là khắc tinh với Gian manh xảo quyệt của Hồ Chí Minh, và Hồ Chí Minh đã thấy được sự thất bại sẽ đến với hắn nếu cụ Diệm còn nắm chính cương ở Miền Nam, nên Hồ chí Minh đã tìm mọi cách loại trừ cụ, âm mưu sát hại cụ để trừ hậu hoạn cho chế độ Cộng Sản Vô Thần .
Viết như thế, tôi không có ý ám chỉ Hô褐Đồng Tướng Lãnh Cách Mạng năm 1963 đã làm một việc không công cho Hồ chí Minh, tôi chỉ giận và tiếc, giống như tâm trạng các thi hữu đã họa lại bài cũa cụ
Như Lệ Khanh phê phán
Một bọn phản thần mưu giết chúa
Tham tiền nào biết đục hay trong ?!
Vì đồng tiền tối mắt mà những kẻ võ biền đã làm một điều tệ hại khôn lường cho quốc gia đại sự , tiếc lắm thay !!!
Hay như nhà thơ Từ Phong than thở :
Tế thế kinh bang tài xuất chúng
Tiếc thay mầm vạ nẩy từ trong!!
Và nhà thơ Trường Giang ngưỡng mộ :
Khí tiết lăng sương thù khiếp vía,
Hiềm vì phản loạn núp bên trong.
Nhưng trong những kẻ nhúng tay vào máu, chúng ta không thể không nói đến vai trò người MỸ. Theo như các tài liệu được giải mật, người ta được biết một trong những nguyên nhân cái chết của cụ Diệm là vì cụ đã mâu thuẫn với chủ trương đem quân tham chiến truục tiếp của người bạn đồng minh Hoa Kỳ . Ở đây ta mới thấy cái tài thao lược ước đoán như thần của cụ Diệm, dường như có một tài liệu cho rằng cụ Diệm phản đối người Mỹ đổ bộ ở Miền nam, vì dù có phải nhờ tiền của viện trợ, cụ Diêﭠnhất định giữ lấy vai chính trong việc đối đầu với cả khối Cộng sản tại Việt Nam, vì cụ e rằng người Mỹ trực tiếp tham chiến sẽ là cái cớ để Hồ Chí Minh đánh bóng chính nghĩa giả tạo giải phóng Miền Nam . Cụ không muốn nhờ vả đến máu xương ngươì Mỹ vì:
Nợ gì còn có thể trả được
Nợ Máu Xương lấy chi báo đáp cho cân ??
Cái gương ái quốc và minh tuệ của cụ Ngô Đình Diệm đã làm tôi thao thức kính phục, Hy vọng sự thật phải được sáng tỏ để phục hồi danh dự cho một người có công lớn với đất nước và dân tộc :
Tiết trực tâm hư gương ái quốc
Mai nầy đời gạn đục khơi trong .
Tôi dùng chữ mai nầy e không được hoàn chỉnh cho lắm, cần gì phải đến mai sau gương ái quốc của cụ Diệm mới trở nên trong sáng vằng vặc như trăng rằm ? Bổn phận chúng ta phải như Thi sĩ Thiên Tâm :
CHÍ lớn chưa thành thân dẫu thác
SĨ dân thương tiếc biển trời trong
Để tự hỏi và tự kêu gào :
Cứu tinh dân tộc nay đâu vắng ?
Xao xác chợ đời luận đục trong
Ước vọng lớn nhất của người viết bây giờ là phục hồi uy tín của một bậc đại sĩ, một cứu tinh dân tộc,
Một người mà tâm nguyện đến lúc chết vẫn là “uy vũ bất năng khuất”
Nhắm mắt xuôi tay tùy cõi thế
Nguyện cầu dân tộc đục thành trong
Hoàng Ngọc Văn
Đọc bài thơ NỖI LÒNG của chí sĩ NGÔ ĐÌNH DIỆM để chúng ta cảm thông và kính phục tinh thần nhập cuộc của cụ , niềm thao thức của cụ và xót xa cho thân phận lãnh tụ một nước nhược tiểu : “Dường mây rộng rãi tiếc chim hồng”
Sau 50 năm, đọc bài thơ NỖI LÒNG của chí sĩ NGÔ ĐÌNH DIỆM, lòng tôi thấy bùi ngùi xúc cảm, phải chi cụ còn sống, hẳn lịch sử nước nhà đã đổi khác, 80 triệu con dân nước Việt ít ra cũng không phải sống trong cái chế độ XẮP HÀNG CHÓ NGỰA như bây giờ, hàng triệu sinh linh chưa chắc đã phải vùi thây nơi rừng thiêng nước độc, hay biễn cả bão bùng . Và hàng triệu người khác phải lưu lạc nơi đất khách quê người để bùi ngùi nhìn về quê hương tăm tối .
Câu nói “một dân tộc không cần nhiều anh hùng, chỉ cần có một vị minh quân” sao chí lý lắm thay .
Có người đặt nghi vấn đây không phải là bài thơ của cụ Diệm, mà có thể là bài thơ của một nhà nho ái quốc nào khác viết hoặc giả có người nào đó viết thác tên của cụ; tôi không được rõ lắm, nhưng tôi nghĩ cụ Diệm đã từng học Hán văn, lại theo Tân Học, một người như cụ chẳng lẽ cả đời không làm được bài thơ nào hay sao, có thể bài thơ do cụ sáng tác nhưng vì bản tính khiêm tốn, kín đáo cụ không muốn phổ biến lúc cụ còn sống, còn cầm vận mệnh dân tộc, còn lèo lái con thuyền quốc gia ( đó là điểm khác biệt giữa Trần Dân Tiên ? Hồ Chí Minh và chí sĩ Ngô Đình Diệm ) vả lại thời gian trước phương tiên truyền thông không phổ cập như hiện nay, nên có rất nhiều nhà nho, nhà trí thức làm thơ chỉ lưu truyền trong vòng thân hữu nên sau này bị thất lạc là đa phần .
Tôi nêu bài thơ này để như tiếng chuông gióng lên để quý vị nào biết thì lên tiếng để đánh tan những ghi vấn .
Tôi nghĩ rằng sẽ còn nhiều thi hữu sẽ họa lại bài thơ này, nhưng sợ để lâu nhiều ý nghĩ bị mai một nên tôi xin được ghi chép ra đây để như thi sĩ THIÊN TÂM gọi là:
MỘT NÉN HƯƠNG LÒNG DÂNG CHÍ SĨ
MUÔN ĐỜI TƯỞNG NHỚ BẬC HIỀN MINH
San Jose ngày 19 tháng 10 năm 2003
Trần Việt Yên *
Kỷ niệm 40 năm ngày mất của vị khai sáng Việt Nam Cộng Hòa
* Tôi cũng vừa được cụ Mục Sư Hồ Xuân Phong ( năm nay 81 tuổi ) cho hay cụ Diệm còn một bài thơ nhan đề “TÓC BẠC”, nhưng rất tiếc đã lâu cụ quên mất, cụ có hứa khi nào nhớ lại được bài thơ sẽ đọc cho tôi chép lại , nếu bậc cao minh nào biết bài thơ ấy xin gởi cho chúng tôi sớm càng hay – Xin đa tạ
(Trần Việt Yên)