TỪ SAIGON 1975 ĐẾN AFGHANISTAN 2021: “CHIẾN THẮNG KHÔNG DO CHIẾN TRƯỜNG QUYẾT ĐỊNH” (Thuy My)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Quân đội Hoa Kỳ chiến đấu tại Afghanistan

Sự hiện diện của quân Mỹ ở Afghanistan kéo dài hơn so với ở Việt Nam, nhưng rồi Mỹ cũng triệt thoái sau cuộc đàm phán dai dẳng với kẻ thù – tuy không thất bại trên chiến trường. Kẻ chiến thắng là kẻ lì lợm đeo bám nhất. Đó là nguyên nhân khiến mọi cuộc rút quân, vốn là điều không thể tránh đối với một đội quân viễn chinh, đều có vẻ như một sự thua cuộc.

Courrier International dịch bài viết của trang Gandhara ở Kaboul, điểm qua tình hình Afghanistan sáu tháng trước khi khi quân Mỹ rút đi và kết luận “Không, phe Taliban không hề thay đổi” như họ khẳng định. Tại những vùng phe này kiểm soát, người dân vẫn bị đàn áp, tự do ngôn luận không có. Phụ nữ không được đi làm, các bé gái không còn được đến trường. Từ 2016, Taliban cấm các chiến binh dùng điện thoại thông minh, và nay mở rộng lệnh cấm đến thường dân.

Trang web tuần báo Le Point có bài viết so sánh việc Mỹ rút quân khỏi Afghanistan trong hiện tại với cuộc chiến tranh Việt Nam trước đây. Việt Nam, Iraq rồi đến Afghanistan: từ nửa thế kỷ qua, người Mỹ tuy chưa bao giờ chiến bại, nhưng vẫn liên tục có những cuộc triệt thoái, dẫn đến thất bại trong cuộc chiến truyền thông.

Cùng với loan báo rút quân Mỹ khỏi Afghanistan, một kỷ niệm lại hiện đến. Ký ức tập thể in đậm dấu ấn cuộc di tản bằng trực thăng trên nóc tòa đại sứ Mỹ ở Saigon – thủ đô Việt Nam Cộng Hòa sắp bị quân cộng sản Bắc Việt tràn ngập ngày 30/04/1975.

Kẻ chiến thắng là kẻ dai dẳng không chịu bỏ cuộc

Người ta quên rằng trong chiến dịch “Frequent Wind” (Gió Lốc), trong số 7,000 người được di tản chỉ có khoảng 1,000 người Mỹ. Tuy chiến dịch điều tàu thuộc lực lượng đặc nhiệm 76 đến Vũng Tàu để giúp di tản do MACV (Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam) tiến hành, nhưng hầu như tất cả các quân nhân Mỹ đã ra đi từ lâu. Cụ thể là vào mùa hè 1973, tức sáu tháng sau khi ký Hiệp định Paris ngày 27 tháng Giêng năm đó.

Cũng vào mùa hè 1973, con số lính Mỹ đóng tại Việt Nam lại về số zéro, sau khi từ 20,000 năm 1964, lên đến 543,000 tháng 4/1969 rồi sụt dần xuống 27,000 cuối 1972 theo chủ thuyết Việt Nam hóa chiến tranh của tổng thống Richard Nixon. Sau trận đánh cuối cùng để gỡ thể diện – oanh kích ồ ạt Hà Nội trong dịp Noel 1972 – Hoa Kỳ thương lượng điều mà ông Nixon gọi là “hòa bình trong danh dự”. Lính Mỹ rút về nước, nhưng quân Cộng Sản Bắc Việt vẫn tiếp tục ở lại miền Nam. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn tại vị, nhưng một cái chết dần mòn hiện ra đối với Việt Nam Cộng Hòa.

Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975 – ngườ dân chen lấn tại tòa đại sứ Mỹ rời khỏi Việt Nam

Như tác giả John Prados trong cuốn “Chiến tranh Việt Nam” đã viết, Hoa Kỳ lẽ ra có thể chiến thắng nếu tiếp tục thả bom Bắc Việt trong nhiều tháng, nhưng chính quyền phải đối diện với sự chống đối ở Quốc Hội, tâm trạng chán nản của quần chúng. Ngay cả Nixon sau này tỏ ra hối tiếc là đã không cứng rắn hơn. Saigon năm 1975 với dòng người hoảng loạn trước đại sứ quán Mỹ, những chiếc trực thăng bị quăng xuống biển để các phi cơ di tản đáp xuống Hàng Không Mẫu Hạm, vẫn còn gây đau lòng cho dư luận Mỹ hơn hết mọi thứ. Nước Mỹ đã thua trong cuộc chiến hình ảnh.

Sự hiện diện của Mỹ ở Afghanistan kéo dài hơn so với Việt Nam, nhưng Mỹ cũng triệt thoái sau cuộc đàm phán dai dẳng với kẻ thù, lần này là Taliban –  tuy không thất bại trên chiến trường. Kẻ chiến thắng là kẻ lì lợm đeo bám nhất. Đó là nguyên nhân khiến mọi cuộc rút quân, vốn là điều không thể tránh đối với một đội quân viễn chinh, đều có vẻ như một sự thua cuộc. Như chính khách Pháp Maurice Thorez đã nói, cần phải biết kết thúc một cuộc chiến.

Thụy Mi điểm báo