Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân do Đại tá Nguyễn Kim Tây làm Chỉ huy trưởng nằm trong Sư Đoàn 106 BĐQ được thành lập cấp tốc trong những ngày giữa cuối tháng 4/1975, đóng tại Phú Thọ (ngay trong trường đua Phú Thọ), Liên đoàn 7 BĐQ trách nhiệm mặt Phú Lâm, từ Xa cảng miền Tây đến Cây Da Xà. Tiểu đoàn 58 của tôi trách nhiệm chiếm các cao ốc, chận địch từ hướng Long An lên, hai Tiểu đoàn bạn trong Liên Đoàn 7, TĐ32/BĐQ trách nhiệm từ Mũi tàu dọc theo Xa lộ Đại Hàn, TĐ85/BĐQ tăng phái cho Tiểu khu Gia Định.
Chiều ngày 28-4-75, lúc 19 giờ, địch quân từ hướng Long An tràn vô Xa cảng miền Tây và hướng Cây Da Xà. Tôi cho lệnh các khẩu đội đại bác SKZ75 và 57 cũng như 6 khẩu đại liên gồm đại liên 30 và đại liên M-60 (lấy hết trong kho đem ra bố trí sẵn sàng tiếp địch).
Ý định tôi chờ địch càng gần càng đẹp. Một mặt tôi chỉ thị cho sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị khẩn yêu cầu đồng bào lui về hướng trường Minh Phụng (trường học của người Hoa), tại nơi đây đã có BCH/LĐ7 đang đóng quân.
Đúng 21 giờ 17 phút, Việt cộng xung phong ồ ạt vào tuyến phòng thủ của đơn vị tôi, trong khi còn cách xa tuyến phòng thủ 200m. Đứng trên nóc bằng tầng lầu 3, tôi nhìn xuống thấy rõ mồn một nhưng chưa đúng tầm sát hại của các loại vũ khí cầm tay như M16 và lựu đạn M67.
Địch quân không quen tấn công thành phố, nên chúng chạy vào như là đàn vịt rất ngon xơi. Suốt đời binh nghiệp 12 năm quân ngũ, chưa trận nào tôi thấy địch đông như vậy. Đã có kinh nghiệm xem phim quân đội Hoa Kỳ phản công trận Nhật tấn công ngọn đồi Bataan, Philippines, nên tôi chờ địch quân vào cận tuyến mới cho lệnh nổ súng.
Khi còn cách 30m … rồi 20m … rồi 10m … Rất hồi hộp và sướng run, tôi nổ súng Colt cầm tay khai hỏa và bồi tiếp một quả lựu đạn Mini. Đồng loạt một tuyến dài từ Xa cảng miền Tây đến gần Cây Da Xà, tất cả đều bóp cò vang. Súng nổ dòn, tôi đứng trên cao ốc nhìn xuống … địch quân ngã như sung rụng. 2/3 ngã tại chỗ, số còn lại rút chạy ra xa tầm súng.
Tôi đứng cạnh khẩu súng cối 81 ly đặt trên cao ốc, cho lệnh bắn chận bít chúng lại. Sáu con gà cồ đại liên 30 và M-60 gáy rộ, địch ngã trông thật khoái mắt. Chỉ 10 phút sau không còn thấy bóng dáng và nghe tiếng súng AK của chúng bắn trả vào. Tôi cho lệnh ngưng tác xạ.
Từ khi ấy cho đến sáng ngày 29-4-75, đúng 6 giờ sáng đại đội báo cáo có 7 binh sĩ ta bị thương. Tôi cho lệnh Đại úy Huỳnh Lập Quốc, Trưởng ban 3 xin tản thương về Tổng Y viện Cộng Hòa.
Đúng 7 giờ tôi điều động các Đại đội tung quân ra trước tuyến tuần tiểu rẽ quạt, tìm và tiêu diệt số địch quân chém vè tại chỗ. Các đại đội báo cáo đã tịch thu một số lớn vũ khí cá nhân trên xác chết địch, trên trăm khẩu đủ loại.
Vũ khí tịch thu tôi cho chất thành đống trong nhà thờ Phú Lâm. Suốt cả ngày 29-4-75 địch không dám mở đợt tấn công nào cả. Đứng trên cao ốc đặt ống nhòm nhìn ra hướng Tân An thấy địch rõ ràng, chúng đang bố trí các hỏa tiễn.
Tôi cho lệnh các Đại đội dàn quân ngoài tuyến. Một binh sĩ một hố cá nhân, phải sâu đến cổ. Đích thân tôi và Đại úy Hiệp đi kiểm soát hố đến 18 giờ thì hố cá nhân hoàn tất.
Đến 22 giờ đêm 29-4-75, địch lại tràn vào tấn công. Tôi và Đại úy Hiệp cho lệnh các đơn vị chống trả mãnh liệt, địch không sao tiến đến tuyến Tiểu Đoàn chúng tôi được. Tôi để Đại úy Hiệp lo việc đốc thúc binh sĩ Tiểu Đoàn chống trả. Tôi lo gọi Pháo binh từ trong phi trường Tân Sơn Nhất bắn ra chận hậu, nhưng đến nay địch đông quá, lớp này ngã lớp khác bám vào, có cả dân chúng bị VC lùa đi trước quân của chúng. Đây là một trở ngại cho chúng tôi.
Trọn đêm 29 rạng ngày 30-4-75 Pháo binh Tân Sơn Nhất bắn yểm trợ cho Tiểu Đoàn thật là chính xác. Địch chết và bị thương vì Pháo binh khá nhiều. Đến 5 giờ sáng ngày 30-4-75 chúng không thể tấn công tuyến dàn quân phòng thủ của Tiểu Đoàn được. Chúng lui ra xa và điều quân đến bao vây đồn Bà Hom.
Tuy nhiên, chúng vẫn còn một thành phần khá hùng hậu yểm trợ cho đơn vị súng nặng của chúng. Chúng cho pháo lai rai vào tuyến phòng thủ của chúng tôi.
Giờ phút cuối cùng của trận đánh để đời có điều đặc biệt xảy ra cho đơn vị chúng tôi là suốt một đêm phòng thủ, cho đến sáng ngày 30-4-75, mặc dù chúng tung quân tấn công và Tiểu Đoàn chống trả đến bốn đợt tấn công của địch rất ư là mãnh liệt, luôn cả Tiểu đoàn Trưởng cho đến giờ phút chót, không một binh sĩ nào trong đơn vị bị thương và tử trận cả. Điểm đặc biệt trong đời quân ngũ của tôi, đây đúng là một phép lạ.
Nhưng đến mười giờ ngày 30-4-75, TT Dương Văn Minh kêu gọi trên đài phát thanh Sàigòn: “Buông súng xuống chờ lệnh tại chỗ”. Từ lúc ấy chúng tôi không còn được chiến đấu nữa. Sau đó bị chúng đưa đi các trại tù cải tạo. Trong miền Nam thì tại Long Giao, Long Khánh, Suối Máu, Biên Hòa, Rồi chúng đưa ra Bắc, Sơn La, Yên Bái, Hà Nam Ninh.
Rồi giờ đây sống lang thang nơi xứ lạ quê người. Tôi nhớ lại điều đặc biệt mà tôi hằng mong mỏi khi còn đang ở tù Cộng Sản là: Tự Do, Tự Do và Tự Do.
Mũ Nâu ĐĐT, cựu Sĩ quan LĐ7 Biệt Động Quân QLVNCH