Đã lâu lắm rồi, kể từ ngày trận đánh Cửa Việt xảy ra. Tất cả những người trong cuộc có lẽ đều có chung ý nghĩ đây là trận đánh cuối cùng trước giờ ngưng bắn! Nhưng thật sự, sau hơn 38 năm, trận đánh Cửa Việt vẫn còn hừng hực lửa “Chiến Thắng“ trên những đặc san, hồi ký hoặc bút ký chiến trường của cả các sĩ-quan, tướng lãnh của 2 phe tham chiến. Ai cũng cho mình là người chiến thắng, là kẻ anh hùng dù đơn vị dưới quyền chỉ huy của mình bị đối phương đánh cho tả tơi, tan tác… nhưng vẫn hiên ngang mà tuyên bố “Can trường trong chiến bại” chứ chưa bao giờ nghe ai tự nhận trách nhiệm về mình sau cuộc chiến!!…Riêng tôi là một trong hàng trăm chiến sĩ của QLVNCH có mặt trong trận đánh đó. Ở đây tôi không dám lạm bàn về Anh Hùng hay Bại Tướng mà chỉ muốn nóí lên niềm tự hào của môt người lính Thiết Giáp trên chiến trường giới tuyến vì đã tham dự nhiều trận chiến trong Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 và trận đánh ác liệt, đẫm máu, phá tan tuyến phòng thủ kiên cố nhất, mở đường cho những trận tái chiếm tỉnh lỵ và Cổ thành Quảng Trị, và lại có mặt trong cuộc hành quân tái chiếm Cửa Việt: Một cuộc hành quân thần tốc do Thiết Giáp làm Lực Lượng Tấn Công chính, phải chiếm cho bằng được mục tiêu trong vòng 24 tiếng đồng hồ, vượt qua đoạn đường hơn 10 cây số với vô vàn chốt và tuyến chặn của địch mà trước đó các đơn vị bạn đã phải mất hàng tháng trời, khó khăn lắm mới tiến lên được vài trăm mét, sau cùng vẫn bị đẩy lui về vị trí ban đầu……
“Truth is the only merit that gives dignity and worth to history.”
Lord Acton
Toàn bộ quá trình kế hoạch Hành Quân mang tên Tango bắt đầu từ buổi họp hành quân đặc biệt vào lúc 09:00 giờ ngày 26/01/1973 tại Phòng Họp Hành Quân BTL/Lữ Đoàn 147/TQLC tại Hội Yên, Hải Lăng, Quảng-Trị, gồm có:
– Tr/Tướng Ngô-quang-Trưởng (TL/QĐ1)
– Ch/Tướng Bùi-thế-Lân (TL/SĐ/TQLC)
– Đ/Tá Nguyễn-thành-Trí (TLP/SĐ/TQLC)
– Các TL Lữ Đoàn 147, 258, và 369 TQLC
– Các Thiết Đoàn Trưởng gồm:
– Tr/Tá Ng-văn-Tá (Th/Đoàn Trưởng Th/Đoàn20CX),
– Tr/Tá Nguyễn-xuân-Dung (Th/Đoàn Trưởng Th/Đoàn17KB),
– Th/Tá Phan-văn-Sĩ (Th/Đoàn Trưởng TĐ18KB)
– Các T/Đoàn Trưởng TQLC
– Và Đ/u Đặng-hữu-Xứng (Chi Đoàn Trưởng CĐ1/20CX)
NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT
Lệnh của Tổng Thống Nguyễn-văn-Thiệu:
– Phải chiếm lại Cửa Việt trong vòng 24 giờ, tức là trước 08:00 giờ ngày 28/01/1973 (ngày ký Hiệp Định Paris).
TỔNG CHỈ HUY CUỘC HÀNH QUÂN TANGO
Đ/tá Nguyễn-thành-Trí (TLPhó/SĐ/TQLC)
CHỈ HUY CÁC CÁNH QUÂN
1. Cánh A (Nổ lực chính)
Do Đ/u Đặng-hữu-Xứng ((khóa 19 TBB/TĐ), C/Đoàn trưởng C/Đoàn 1/20CX chỉ huy. C/Đoàn phó là Tr/u Lê-văn-Điệp (khóa 1/69 TBB/TĐ). Nhưng khi tham chiến thì Tr/u Lê-văn-Điệp được Đ/u Xứng cho ở lại tiền cứ là căn cứ Hòa Mỹ (Camp Evans – Phò-Trạch, Phong Điền) vì phải giải quyết chuyện cá nhân, và Tr/u Tống-huy-Kính (cựu C/Đội trưởng C/Đội 2/1/20CX) được Đ/u Xứng chỉ định thay thế.
Lực lượng gồm:
– C/Đoàn 1/20 CX M-48. Chỉ đoàn tham chiến chỉ gồm 12 CX [(BCH/C/Đoàn gồm 2 CX Chỉ huy + 1 M.577 – xe Truyền tin- + M.113) + Chi Đội 3/1/20CX của Th/u Đặng-văn-Quang (5 CX) + Chi Đội 3/3/20CX của Th/u Nguyễn-văn-Sa từ Chi Đoàn 3/20CX tăng phái (5 CX)]
Đơn vị tăng phái cho Đ/u Xứng:
– Chi Đoàn 2/17TK (22 xe M.113), C/Đoàn trưởng là Đ/u Trần-Cảnh (khóa 22B TVBQG/VN). C/Đoàn phó là Tr/u Thi (khóa 26 TBB/TĐ)
– ĐĐội4/TĐoàn2TQLC (Trâu Điên) của Tr/u Trần-đinh-Công (khóa 26 TBB/TĐ)
Nhiệm vụ: Tấn công càn lướt các mục tiêu dọc bờ biển để tiến chiếm Cửa Việt trước giờ ngưng bắn, tức là 8 giờ sáng ngày 28/01/1973: ngày ký Hiệp Định Paris.
2. Cánh B (Nổ lực phụ)
Do Đ/u Lê-bá-Nam (khóa 20 TBB/TĐ), C/Đoàn trưởng C/Đoàn 3/20CX chỉ huy. C/Đoàn phó là Tr/u Nguyễn-thanh-Hiền (khóa 23 TBB/TĐ).
Thiết Đoàn 20 Chiến Xa M48 – Quảng Trị 1972
Lực lượng gồm:
– C/Đoàn 3/20CX (- 1 C/Đội của Th/u Ng-văn-Sa) gồm12 CX M.48 + M.113
Đơn vị tăng phái cho Đ/u Nam:
– C/Đoàn 3/18TK (gồm 22 xe M.113) C/Đoàn trưởng là Đ/u Nguyễn-quang-Minh (khóa 14 TBB/TĐ). C/Đoàn phó là Tr/u Nguyễn-văn-Quyến (khóa 24 TVBQG/VN).
– ĐĐ3/TĐoàn4TQLC (Kình Ngý) của Tr/u Mai-văn-Hiếu (khóa 23 TVBQG/VN)
Nhiệm vụ: Tiến quân dọc theo các làng mé ruộng phía tây, song song nhưng tiến chậm hơn và cách Cánh A chừng gần 01 km, hổ trợ theo yêu cầu của Cánh A, cùng tiến chiếm mục tiêu Cửa Việt.
– T/Đoàn 4 (-) TQLC của Tr/tá Nguyễn Đằng Tống (khóa 16 TVBQG/VN), có nhiệm vụ phải tiến quân theo sau Cánh A, điền trám vào những mục tiêu đã được Thiết Giáp càn lướt qua và diệt những ổ kháng cự còn sót lại trong các mục tiêu.
– T/Đoàn 2 (-) TQLC của Th/tá Trần-văn-Hợp (khóa 19 TVBQG/VN) được tăng cường 3 Đ/Đội của T/Đoàn 9 TQLC do Th/tá Phạm-Cang (khóa 20 TVBQG/VN) chỉ huy, từ tuyến Long Quang, có nhiệm vụ phải tiến chiếm các mục tiêu dọc mé ruộng lên hướng Bắc.
Giờ G (xuất phát tấn công): 07:00 ngày 27/01/1973
– Không tiếp tế, không tải thương, tức là, nếu TQLC hay TG bị thương thì bỏ lại tại chỗ cho đơn vị theo sau lên săn sóc tải thương.
– Không cần thu chiến lợi phẩm hay bắt tù binh.
– Không cần giao chiến khi gặp địch mà chỉ cần càn lướt, ngoại trừ trường hợp bất khả kháng.
– Hoàn toàn không có Không Quân yểm trợ.
– Chỉ có Pháo Binh yểm trợ.
– Lương thực mang theo gọn nhẹ cho 3 ngày.
– Mỗi quân nhân đều phải mang theo 5 lá cờ VN nhét vào trong nón sắt hay balô để cắm vào mục tiêu chiếm được tại Cửa Việt để phân ranh giới.
Cuộc Hành Quân Tango phải được giữ bí mật cho đến trước giờ xuất phát tấn công.
Sau khi Đ/Tá Trí thuyết trình xong, tôi (Đ/u Đặng-hữu-Xứng) đã đứng lên trình bày:
“Thưa Đại Tá, có lẽ tôi sẽ phải mất một khoảng thời gian chưa xác định được để vượt qua tuyến chặn đầu tiên của địch, vì đã hơn 1 tháng, các T/Đoàn TQLC đã nhiều lần thay phiên nhau tìm cách đánh thủng tuyến này nhưng vẫn không có kết qủa. Điều này chứng tỏ đây là một tuyến chặn rất vững của địch.”
Và Ch/Tướng Lân nói:
“Tình hình là như thế nhưng giá nào cũng phải hoàn thành nhiệm vụ giao phó.”
Buổi họp Hành Quân kết thúc sau hơn 1 tiếng đồng hồ. Tôi nói với Tr/tá Tá bảo Đ/u Nam tăng phái Chi Đội của Th/u Ng-văn-Sa cho tôi và Th/u Sa cùng C/Đội của mTnh phải có mặt tại điểm tập trung này (tôi chỉ trên bản đồ lúc 17 giờ cùng ngày. Tôi nói với Tr/tá Dung bảo Đ/u Cảnh (C/Đoàn trưởng 2/17TK) cùng C/Đoàn 2/17TK cũng đến đó cùng ngày giờ.
(- Lý do tôi chỉ định Chi đội của Th/u Sa cũng rất dễ hiểu, vì Th/u Sa là một sĩ-quan đã từng phục vụ ở Ch/Đoàn 3/20CX kể từ ngày thành lập Th/Đoàn 20CX nên đã được huấn luyện kỹ từ khi Cuộc Chiến tại Quảng-Trị và Đông-Hà bùng nổ, cũng như đã trải nghiệm chiến trường.
– Còn Chi Đoàn Phó của tôi là Tr/u Lê-văn-Điệp lại nằm trong trường hợp đặc biệt: Vợ của anh ta đã từ Sàigòn ra thăm chồng, mang theo cái bầu bự hơn 3 tháng. Dân gian thường có câu: vợ mà có bầu thì chồng thường gặp điều xui xẻo. Có đúng như vậy hay không thì tôi chưa biết, nhưng trong trường hợp này thì tôi lại cho là đúng nên đã cho Tr/u Điệp ở lại tiền cứ và bảo liên lạc thường xuyên để biết tình trạng của 2 Chi Đội là Chi Đội 1 và Chi Đội 2 của tôi đang được tăng phái cho các T/Đoàn Nhảy Dù tại các tuyến ở hướng núi phía Tây Quốc lộ 1. Để thay thế, tôi chỉ định Tr/u Tống-huy-Kính (cựu C/Đội trưởng Chi Đội 2/1/20CX) phụ tá cho tôi trong cuộc hành quân này. Riêng tôi thì vợ tôi chỉ còn chừng gần 1 tháng nữa là sinh thêm cho tôi một đứa con, nhưng vì là “Đầu tàu” thì đành phải chịu thôi.)
Trên đường về, ngồi trên xe jeep, lòng tôi cứ ngổn ngang những thắc mắc không tìm được lời giải đáp:
– Tại sao lại chỉ định mình (chỉ với cấp bậc Đại-úy) chỉ huy Cánh A làm Nổ Lực chính trong một cuộc hành quân qui mô như thế này?
– Tại sao không để cho mình chỉ huy C/Đoàn (-), tức là 2 C/Đội cơ hữu của C/Đoàn mà chỉ để lại cho mình 1 C/Đội và lại tăng phái cho mình 1 C/Đội của C/Đoàn 3/20CX? Như vậy, chỉ huy một đứa em ruột với khả năng mình biết rõ và một đứa em nuôi mình chưa biết rõ thì làm sao có được sự nhịp nhàng và ăn khớp trong việc chỉ huy và điều động?
– Còn nói về tâm trạng riêng của tôi (và nhất định là tâm trạng chung của những quân nhân các cấp thuộc 2 Binh chủng TG và TQLC trong lực lượng tham chiến) thì khó có thể diễn đạt hết được. Chỉ còn hơn 1 ngày và 1 đêm nữa thì Hòa Bình rồi, vậy ai mà không muốn mình còn sống sót để hưởng những giờ phút quý báu nhất trong đời lính như thế chứ?
Về đến tiền cứ, tôi bảo Th/u Đặng-văn-Quang kiểm tra C/Đội 3/1/20CX của anh để sẵn sàng di chuyển khi có lệnh, và nói 17 giờ sẽ họp, sẽ có cả Th/u Ng-văn-Sa và Đ/u Trần-Cảnh của C/Đoàn 2/17TK. Nghe như thế, Quang dĩ nhiên là lộ vẻ ngạc nhiên. Tôi liền nói luôn là C/Đoàn có nhiệm vụ đặc biệt và lực lượng sẽ có Th/u Sa từ C/Đoàn 3/20CX tăng phái cùng với C/Đoàn 2/17TK và 1 Đ/Đội TQLC của T/Đoàn 2 Trâu Điên tùng thiết, và dặn Quang không được tiết lộ với bất cứ ai.
Đến 16:00, từ tiền cứ tại căn cứ Hòa Mỹ (Camp Evans), BCH/C/Đoàn 1/20CX cùng C/Đội 3/1/20CX của chúng tôi bắt đầu di chuyển đến Hải Lăng và tiếp tục đến Mỹ Thủy, chuyển qua hướng Bắc đến Thôn Thuận Đầu (vị trí của BCH/TĐoàn 4 TQLC), bung ra nủa vòng tròn bố trí, dành nửa vòng tròn còn lại cho C/Đội CX M.48 của Th/u Sa, còn C/Đoàn 2/17TK M.113 thì sẽ bố trí xen kẻ giữa những chiến xa.
Khoảng 17:20, các C/Đội và C/Đoàn TG đã đến đủ và bố trí xong và lo cơm nước buổi tối. Tôi gọi các sĩ-quan TG tham chiến đến và trình bày lại những gì đã nghe được trong buổi họp tại Lữ Đoàn 147/TQLC, nhưng dặn phải chỉ nói với anh em thuộc cấp rằng đây chỉ là một cuộc hành quân bình thường để giữ an toàn cho các đơn vị ở tuyến đầu mà thôi. Tuy nhiên, họ phải nổ lực và cẩn thận y như các cuộc hành quân họ đã từng tham dự. Riêng Đ/Đội TQLC tùng thiết sẽ có mặt vào sáng sớm ngày hôm sau trước 06:00 (ngày 27/01). Đến lúc đó mới có kế hoạch chi tiết
Tôi báo cáo về BTL/Hành Quân/SĐ/TQLC cho biết tình trạng và vị trí.
DIỄN TIẾN TRẬN ĐÁNH
Khoảng 05:30 ngày 27/01/73, Đ/Đội 4/TĐ2 TQLC của Tr/u Công đến trình diện. Tôi gọi Đ/u Cảnh, Tr/u Kính, Th/u Quang, Th/u Sa và Tr/u Công đến họp ngay sau xe M.113 thuộc Phân đội chỉ huy của tôi. Tôi chỉ vào bản đồ vị trí hiên tại, vị trí quân bạn, tuyến xuất phát, tiếp đến nói ngắn gọn về kế hoạch tiến quân của Cánh A, và mục tiêu chính là Cửa Việt. Cũng nói sơ về Cánh B (nổ lực phụ rôi bảo Tr/u Công cho lệnh TQLC tùng thiết lên M.113 của C/Đoàn 2/17TK và chờ lệnh.
Chúng tôi chỉ họp trong vòng khoảng 20 phút. Vào lúc này thì Pháo binh đủ loại bắt đầu TOT (time on target) vào các làng dọc theo bờ biển trên trục tiến quân của Cánh A của tôi.
Khoảng 06:20 ngày 27/01, tôi gọi về BTL/Hành Quân/ SĐ/TQLC để họ báo cho T/Đoàn 4TQLC ra lênh cho Đ/Đội TQLC đang giữ tuyến đầu rút lui để chúng tôi tiến đến tuyến xuất phát.
Khi Cánh A của tôi đến tuyến xuất phát, Pháo binh vẫn còn hoạt động. Chỉ tiếc một điều là đạn pháo chỉ rơi vào bên trong các làng mà VC thì lại đào giao thông hào để bố trí kháng cự hoàn toàn ở ngoài khoảng cát trống nhưng có những ụ cát mấp mô, rải rác những cây bụi nhỏ, phía trước làng. Tôi cho C/Đội CX của Th/u Quang dàn hàng ngang bên phải (song song và cách mé biển chừng 100m), và Th/u Sa dàn hàng ngang bên trái, mỗi chiến xa cách nhau chừng 50m vì còn phải có khoảng trống để cho những M.113 của C/Đoàn 2/17TK dàn hàng ngang xen kẻ giữa những chiến xa nhưng lui về phía sau với cự ly chừng 20m.
Tôi chưa kịp ra lệnh tấn công thì địch đã dồn dập nổ súng từ trong làng kèm với đạn cối 82 ly rơi nổ ngay trên tuyến xuát phát. Tôi tức tốc cho lệnh tấn công ngay, dồn hỏa lực đại liên 30 ly M.73 song hành và đại liên 50 ly của Chiến xa và của M.113 vào mục tiêu đầu tiên (làng Gia Đẳng).
1. Nhưng địch vẫn bắn trả rất mảnh liệt bằng thượng liên và súng chống chiến xa AT-3 cũng như B-41. Điều này khiến tôi hồi tưởng đến trận đánh ở Quảng Tín (Quảng Nam) vào đầu Tết năm 1970, lúc tôi còn làm C/Đoàn Phó C/Đoàn 2/17TK.
(Đây là cuộc Hành Quân mang tên Dương Sơn 3 do Lữ Đoàn 1 KB cùng với Liên Đoàn 1 BĐQ do Đ/tá Phan-hòa-Hiệp (TL/Lữ Đoàn 1KB hồi đó) chỉ huy. Khi C/Đoàn tôi đang dàn hàng ngang trước mục tiêu chừng 100m và bắt đầu tiến vào mục tiêu thì địch đã tấn công trước vì chúng đã đào hầm hố và giao thông hào trước mục tiêu chừng 50m. Yếu tố bất ngờ này khiến C/Đoàn lúng túng, nhưng tôi đã ra lệnh tiếp tục tấn công bằng cách dùng đại liên 50 bắn vào mục tiêu, còn 2 khẩu đại liên 30 gắn 2 bên hông phía trên xe M113 thì bắn vào các ụ đất và lùm cây nhỏ trên trục tấn công. Nhờ vậy mà C/Đoàn đã diệt được các chốt phía ngoài trống và xông thẳng vào chiếm được mục tiêu. Sau đó thì thả BĐQ xuống vào sâu lục soát tiêu diệt tiếp. Và tôi đã được thăng cấp Đại Úy đặc cách mặt trận do Đ/tướng Cao.văn-Viên gắn lon tại BTL/Hành Quân/Lữ Đoàn 1KB đóng tại đồi Hương Sơn, Quảng Tín).
Chính vì thế mà tôi ra lệnh cho Chiến xa M48 và M113 tấn công bắn phá theo chiến thuật đó. Đặc biệt là Chiến xa vẫn tiến liên tục cán luôn lên hầm hố và giao thông hào của địch, còn M113 của C/Đoàn 2/17TK vẫn tiến theo sau, đồng thời thả TQLC trên xe xuống để dùng súng cá nhân thanh toán địch trong những hầm hố và giao thông hào đã bị Chiến xa cán lướt qua. Tiến được chừng hơn 200m thì lính TG trên M113 thuộc Phân đội Chỉ huy của tôi đã nhảy xuống bắt sống một tên địch với khẩu súng bắn tỉa có máy nhắm. Tôi mới chợt nhớ ra tại sao hai bên tai của tôi đã có những tiếng nổ toác toác. Đó là đạn phát ra từ khẩu súng bắn tỉa này. Mục đích là muốn tỉa rụng cấp chỉ huy trước. Tôi nhảy xuống khỏi Chiến xa và hỏi tên địch: “Anh thuộc đơn vị nào?” Tên tù binh mặt mày xanh mét, trả lời, giọng miền Bắc run run: “Em thuộc Z6/304. Xin các anh cho em sống. Xin các anh cho em sống!” Tôi cho lệnh chở tên tù binh về phía sau để được khai thác tiếp, rôi lại tiếp tục tiến quân.
Chiến Xa M48- Thiết Đoàn 20- Quảng Trị – 1972
Kể lại phần này thì chỉ mấy dòng và như chuyện đã xảy ra trong thoáng chốc, nhưng trên chiến trường, thời gian cần thiết để thực hiện bước tiến qua từng thước đất của địch rất khó xác định.
Cánh quân của tôi đã vượt qua được khoảng 400m, cách làng Gia Đẳng I khoảng 70m, thì pháo 130 ly của địch bắt đầu dập xuống, tức là địch pháo chặn đường tiến của cánh quân do tôi chỉ huy, đồng thời cũng thí luôn quân của họ đang chống cự ngoài khoảng cát trống, còn trong làng thì địch vẫn liên tục bắn ra.
Ngay vào lúc này, Th/u Đăng-văn-Quang, C/Đội trưởng C/Đội 3/1/20CX, gọi máy báo đã bị thương. Mới bước đầu mà tôi đã mất đi một sĩ-quan thiện chiến rồi. Tôi lập tức ra lệnh cho Tr/u Tống-huy-Kính cùng với Chiến xa của anh lên thay thế và cho M113 chở Th/u Quang về phía sau gần tuyến xuất phát để được tải thương sau khi đã liên lạc thông báo với T/Đoàn4TQLC đang tiến lên từ phía sau để điền vào phần đất cánh quân của tôi đã chiếm được nhưng rất chậm do pháo của địch cứ dồn dập.
Nhìn vào đồng hồ đeo tay, lúc này đã hơn 10:40, tôi ra lệnh cho Tr/u Kính và Th/u Sa tạt xéo về hướng Tây cách xa làng Gia Đẳng chừng 70m, chuyển thành hàng ngang như cánh cung rồi tiếp tục tiến, riêng Th/u Sa phải ra lệnh cho 2 chiến xa phía tận cùng bên phải tác xạ vào làng bên phải (làng Gia Đẳng, dọc sát bờ biển) bằng đại liên M.3 song hành (với đại bác) và đại lên 50 hướng về phía làng, vừa tác xạ vừa tiến về hướng bBc chứ không tấn công. Còn C/Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh thì nhanh chóng cho TQLC tùng thiết lên M113 tiến dọc phía bên trái (phía bên trái tức là phía Tây thì đã có Cánh B của Đ/u Nam, vả lại chỉ là khoảng trống nên không có gì nguy hiểm.)
Cánh A của tôi, kể từ tuyến xuất phát, đã tiến được hơn 2km vào khoảng 13:00. Tôi liên lạc với cánh B để biết vị trí của họ thì biết họ cũng đang gần đến ngang với Cánh A của tôi (Dĩ nhiên Cánh B là nổ lực phụ, tức là phải hổ trợ cho cánh quân của tôi khi cần, nên dù không chạm địch cũng không được tiến nhanh hơn Cánh A, và qủa thật thì cánh B chẳng gặp trở ngại gì nhiều trên đường tiến quân vì bên phía trái của họ đã có T/Đoàn2 và T/Đoàn9 TQLC trong các làng thuộc mé ruộng).
Tôi tự nghĩ: mới mức độ tiến quân như thế này thì khó có thể đến được Cửa Việt vào buổi chiều tối. Vả lại địch quân vẫn bắn trả ráo riết. Tôi ra lệnh tiếp tục tiến quân càng nhanh càng tốt, dù biết những làng dọc mé biển vẫn còn địch quân. Chính vì thế mà T/Đoàn4 TQLC không thể nào hoàn thành nhiệm vụ điền trám quân kịp thời vào những mục tiêu mà cánh quân của tôi đã càn lướt qua.
Bỗng chiến xa của Th/u Sa bị súng chống chiến xa AT-3 của địch bắn nổ sớt qua pháo tháp nhỏ (của đại liên 50 ly) và nhân viên xa đội của anh báo Th/u Sa đã bị thương. Tôi bèn ra lệnh cho C/Đoàn dừng lại chuyển thành hàng ngang tác xạ vào làng Gia Đẳng 3 và Ba Lăng bên phải (dọc biển) để cho M113 thuộc BCH/C/Đoàn của tôi (có y tá đi trên xe này) đến băng bó tạm thời cho Th/u Sa. Tôi hỏi tình trạng thì biết anh bị thương ở mắt và gãy cánh tay trái, tóc bị cháy xém. Sau khi Th/u Sa nhảy ra khỏi chiến xa lại còn bị miểng pháo 130 ly chém gãy luôn chân trái. Dù lệnh là không tải thương, nhưng cũng giống như tình trạng của Th/u Quang (C/Đội trưởng C/Đội 3/1/20CX của tôi), vả lại khoảng cách với tuyến xuất phát chỉ hơn 2km, tôi ra lệnh cho C/Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh bung rộng yểm trợ cho M113 chở Th/u Sa về phía sau và báo cho T/Đoàn 4 TQLC tiếp nhận tải thương. Nhưng vào lúc này thì họ lại điền trám quân chưa kịp với tốc độ tiến quân của chúng tôi nên hơn 40 phút sau xe M113 mới trở lại. Và Th/u Thăng thay thế chỉ huy C/Đội của Th/u Sa (sau khi đã trực tiếp nói chuyện với Th/u Sa để hỏi tên của sĩ-quan này). Như vậy, C/Đoàn 1/20CX (-) của tôi chỉ còn Tr/u Kính là sĩ-quan kỳ cựu mà thôi. Chưa tiến quân được bao nhiêu cây số mà tôi đã thiếu vắng 2 sĩ-quan thiện chiến rồi. Thật không may chút nào!
Đến khoảng 17:40 thì Cánh A của tôi đã tiến được khoảng 5km. Trời đã sẩm tối vì đang là mùa đông. Tôi bèn cho lệnh ngưng tiến quân và tìm nơi bố trí đồng thời gọi cho Cánh B lên cùng phối hợp bố trí đóng quân (ngang với làng Long Quang).
Sau khi bố trí xong thì quân lính bắt đầu ăn uống vì đã không ăn trưa. Lúc này tôi mới gặp Th/tá Hoàng-Kiều, Th/Đoàn Phó Th/Đoàn20CX và mới biết được ông đã được lệnh đi theo để chỉ huy các cánh quân. Còn có cả Th/tá Phạm-văn-Tiền, T/Đoàn Phó T/Đoàn4TQLC nữa. Trời đât! Vậy mà trước đó tôi đã không được thông báo gì cũng như trong hệ thống liên lạc, tôi không nghe ông ra lệnh gì cả, vì BCH/Th/Đoàn 20CX đi theo Cánh B cho an toàn. Ông hỏi tôi: “Sao anh không tiếp tục tiến quân?” Tôi nói: “Trời sắp tối rồi thì TG làm sao mà tấn công được chứ. Vả lại, sáng mai là ngưng bắn, là Hòa Bình rồi. Mình đã chiếm được khoảng hơn 5km là tốt lắm rồi.” Ông chẳng nói gì thêm. Tôi nói: “Vậy bây giờ tôi báo cho Th/tT biết tọa độ vị trí đóng quân của toàn bộ 4 C/Đoàn để Th/tá báo về cho Đ/Tá Trí.” Tôi lấy bản đồ và chỉ vị trí xong rồi nói tiếp: “Nếu họ bảo mình tiếp tục tiến quân thì Th/Tá cứ nói là TG không hành quân vào ban đêm được.”
Tôi về lại BCH/C/Đoàn và nghĩ rằng ý kiến và lý do của mình nghe rất hợp lý trên mặt chiến thuật, cũng hy vọng là cuộc hành quân tạm thời có thể chấm dứt.
Nào ngờ, khoảng 20:45, Th/Tá Kiều đi bộ đến BCH của tôi và nói: “Sư Đoàn TQLC ra lệnh bằng bất cứ giá nào cũng phải tiếp tục tấn công và chiếm cho được Cửa Việt trước 8 giờ sáng mai (tức là sáng ngày 28/01/1973), đúng theo lệnh ban đầu.” Ông chỉ nói có thế mà thôi.
Mọi suy nghĩ và hy vọng của tôi trước đó đều tan biến trong phút chốc. Nhưng đã là lệnh thì phải thi hành thôi. Tôi gọi máy cho Đ/u Nam, Cảnh, Minh cùng với các Đ/Đội trưởng TQLC tùng thiết đến xe tôi để họp khẩn cấp, đồng thời bảo họ cho các C/Đoàn và TQLC tùng thiết chuẩn bị.
Trong khi chờ đợi, tôi vào xe M577, rọi đèn pin vào bản đồ suy nghĩ cho kế hoạch tiến chiếm Cửa Việt. Khi cả 3 Ch/Đoàn Trưởng và 2 Đ/Đội Trưởng đến, tôi nhắc lại lời của Th/Tá Kiều về lệnh của Sý Đoàn TQLC rồi rọi đèn pin vào bản đồ và nói:
“- Mình chỉ còn cách Cửa Việt khoảng hơn 5km về hướng Bắc, cách bờ biển chừng hơn 400m về hướng Đông (sát nước biển). Muốn chiếm Cửa Việt thì bắt buộc phải tấn công bằng tốc độ mới kịp, tức là phải tiến ra sát bờ nước biển rồi phóng nhanh về hướng Bắc.
Chiến Xa M48- Thiết Đoàn 20- Quảng Trị – 1972
– Trên đường tiến quân ra sát biển, tất cả mọi loại súng trên Chiến xa M48 và M113 đều phải xen kẻ quay về bên trái và bên phải. Chỉ có những xe hướng súng về phía trái, tức là hướng bắc, mới tác xạ khi cần. Còn về hướng Nam, tức là bên phải, thì phải cẩn thận vì có thể sẽ gây thiệt hại cho quân bạn, tức là T/Đoàn4TQLC, dù tôi biết họ không thể nào điền trám quân kịp.
– Sau khi ra đến sát bờ biển thì từng xe phải chuyển hướng qua trái và hướng mọi loại súng về bên trái vừa tác xạ vừa tiến theo hàng dọc (bên phải lúc đó là biển). Chỉ còn có một cách này mà thôi. Tôi sẽ không cho gọi Pháo binh bắn chiếu sáng vì như thế địch sẽ thấy rõ các xe của mình để nhắm bắn. Cũng không cần Pháo binh yểm trợ vì sẽ mất yếu tố bất ngờ. Chiến xa nào xuất phát đầu tiên ra hướng biển thì có thể dễ nhận ra đường đi vì là khoảng trống giữa 2 làng Bình An và Thanh Hội Phường, và chân trời phía biển thì mờ sáng. Khi ra đến bải cát sát bờ biển thì sẽ dễ thấy hơn nữa vì ban đêm thì cát thường sáng hơn (kinh nghiệm từ những lần đi tắm biển vào ban đêm của tôi).
– C/Đoàn của Đ/u Nam sẽ đi đầu, kế tiếp là C/Đoàn của tôi, sau đó là C/Đoàn 2/17TK và sau cùng là C/Đoàn 3/18TK. Khi di chuyển, mỗi xe chỉ cách nhau chừng 20m cho dễ thấy nhau. Bây giờ, tất cả trở về ra lệnh cho TQLC tùng thiết lên xe. Sau 40 phút sẽ xuất phát, tức là 22:40. Tất cả các C/Đoàn Trưởng đều phải vào hệ thống truyền tin của Th/Đoàn 20CX (ngoài hệ thống chi huy nội bộ của từng Ch/Đoàn)”.
Cuộc họp khẩn cấp này chỉ gồm có 4 C/Đoàn trưởng và 2 Đ/Đội trưởng TQLC tùng thiết. Có lẽ vì quá vội, tôi quên mất Th/tá Kiều và Th/tá Tiền. (Thật ra thì ngay từ buổi họp tại Lữ Đoàn 147 TQLC, Đ/tá trí đã trực tiếp ra lệnh cho tôi chỉ huy Nổ lực Chính -Cánh A- chứ không đề cập gì đến việc có BCH/Th/Đoàn20CX đi theo. Vả lại, khi Th/tá Kiều chuyển lệnh của BTL/HànhQuân/SĐ/ TQLC cho tôi, ông cũng không đề cập gì đến vấn đề kế hoạch tiến quân).
Đúng 22:40 thì Ch/Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam bắt đầu di chuyển, tiếp đến là những C/Đoàn khác đúng như kế hoạch.
Có lẽ vì địch quân không thể nào ngờ được TG lại tiến quân vào ban đêm. Lại không có Pháo Binh bắn yểm trợ hay chiếu sáng, nên hoang mang và không trở tay kịp. Do đó hầu như địch không có phản ứng kịp thời để ngăn chặn bước tiến của TG trên đường tiến ra sát bờ biển.
Khi Đ/u Nam báo cáo C/Đội đi đầu đã ra sát bờ biển, tôi cho lệnh từng Chiến xa M.48 và M.113 sau khi ra sát bờ mới quay về trái và tiếp tục tiến, như vậy mới không mất đội hình di chuyển vào ban đêm. Và sau khi C/Đoàn 3/18TK báo cáo M.113 cuối cùng của họ đã quẹo trái, tôi cho lệnh nới rộng khoảng cách từng xe lên khoảng 30m, tất cả mọi loại súng đều hướng về bên trái, tức là vào dảy cây dương liểu dọc theo các làng dọc biển, cách bờ chừng 60 đến 70m và vừa di chuyển vừa tác xạ cầm chừng.
Tôi nhìn vào đồng hồ đeo tay, lúc này là 00:20 ngày 28/01/73 (tôi mang đồng hồ dạ quang kèm một địa bàn đeo tay do Cố vấn Mỹ đã tặng tôi năm 1970), ước tính chiều dài đội hình di chuyển của các C/Đoàn để biết khi nào thì Chiến xa đầu tiên đến Cửa Việt.
Đoàn TG tiến quân chừng hơn 1km thì địch bắt đầu khai hỏa mạnh. Đạn địch bay sớt qua các xe rơi lỏm bỏm ngoài nước biển. Tôi cho lệnh tất cả vẫn tiến quân và tác xạ nhiều hơn vào dọc các làng trên đường đi, đồng thời di chuyển nhanh hơn.
Đoàn quân tiến được hơn 1 km nữa thì Đ/u Nam báo cáo chiến xa đầu tiên bị sụp xuống giao thông hào địch quân đã đào trong đêm để chận bước tiến của chúng tôi. Tôi bảo Nam tiếp tục cho các chiến xa kế tiếp lách sát ra ngoài mé nước biển vượt qua chiến xa đó để tác xạ yểm trợ và cho Chiến xa khác đến dùng dây cáp ngắn để kéo xe lên (loại dây cáp ngắn này đều được trang bị trên mỗi Chiến xa M.48). Đoàn quân tạm thời phải dừng lại để giải quyết tình huống này.
Khi được bào cáo chiến xa bị sụp xuống giao thông hào đã được kéo lên, tôi ra lệnh cho đoàn quân tiếp tục tiến, nhưng bổng có một tiếng nổ lớn và ánh sáng chớp lên từ phía sau, và C/Đoàn 2/17TK báo cáo chiếc M113 chỉ huy của Đ/u Cảnh đã bị bắn. Cũng may xe không cháy, vẫn còn chạy được và Đ/u Cảnh cũng chỉ bị thương nhẹ nên vẫn có thể chỉ huy (nếu bị thương nặng hơn thì cũng phải được mang theo mà thôi, vì không thể nào tải thương được), còn có 2 BS bị thương. Tôi cảm thấy yên lòng và bắt đầu tiếp tục di chuyển. Bổng một phát đạn chống chiến xa của địch trúng ngay vào xe tôi, chớp lên một bụm lửa sáng lóe, lọt vào khoang xe từ phía tài xế và chiến xa rung mạnh. Tôi búng người ra ngoài pháo tháp chiến xa, tiếp đến là HS Thẩm, xạ thủ chiến xa của tôi, trồi đầu ra báo HS Thìn, tài xế chiến xa, đã chết. Tôi bảo HS Thẩm cùng Binh 1 Đá, nhân viên nạp đan, kéo HS Thìn ra khỏi xe rồi nhảy vào lại trong pháo tháp và gọi máy cho xe M113 của tôi đi theo sau đến để chở thi thể HS Thìn và ra lệnh cho đoàn quân tiếp tục tác xạ vào làng. Sau đó tôi bảo HS Thẩm nhảy vào lái chiến xa của tôi (điều này rất bình thường vì khi chỉ huy, C/Đoàn Trưởng thường kiêm luôn xa trưởng và có thể tác xạ thay cho xạ thủ bằng cò điện trên cần điều khiển của trưởng xa) Phát đạn chống chiến xa của địch đã trúng ngay vào mặt nạ đại bác và miểng đạn đã phủ xuống đầu tài xế, nhưng lại không xuyên thủng vào trong khoang chiến xa được vì giữa mặt nạ đại bác và thành pháo tháp còn có một khoảng hở. Chỉ kẹt một điều là đại bác xe tôi không còn hửu dụng vì không thể hạ thấp được do mặt nạ đại bác đã bị cong úp xuống chạm và thành pháo tháp. Như vậy thì cây đại lên 30 ly M.73 song hành với đại bác cũng không còn sử dụng được nữa.
Tôi bảo Đ/u Nam tiếp tục di chuyển với tốc độ nhanh hơn nữa, vì bây giờ đã là hơn 05:00 giờ (ngày 28/01/73).
Đoàn quân di chuyển thêm được khoảng 1km thì trời đã hừng sáng (ở vùng biển thì trời sáng sớm hơn trong đất liền), tuy nhiên sương mù dày đặc, tầm nhìn chỉ chừng 50m. Bổng nhiên Đ/u Nam báo là đã đến Cửa Việt. Tôi hỏi Nam: “Như vậy, chiến xa đầu tiên đã thấy được nước mênh mông trước mặt chưa?” Nhưng Nam lại khẳng định là Cửa Việt, còn nói là anh ta đã đến Cửa Việt nhiều lần hồi còn ở C/Đoàn 1/7CX M.41.
(Trước năm 1970, Th/Đoàn 7KB thường xuyên tăng phái một C/Đội chiến xa M.41 cho căn cứ Hải Quân Cửa Việt – Cảng Mỹ -, (Và hồi còn ở cấp Th/u thi Nam đã có thời gian ở C/Đoàn 1/7CX M41) nhưng đãc biệt là hàng tháng thì hoán đổi với C/Đội CX M.41 khác. Lý thuyết thì thế, nhưng thực tế thì chỉ thay đổi nhân viên xa đội mà thôi, vì như thế sẽ đở tốn nhiên liệu và thời gian cho các CX M.41 di chuyển hoán đổi. Nói thật thì loại CX M.41, nếu di chuyển đường dài từ Huế ra đến Cửa Việt, thường bị hỏng hóc dọc đường).
Lúc này, đồng hồ của tôi đã là 06;35. Tôi lật bản đồ, sau khi tính tốc độ và thời gian di chuyển cùng với khoảng cách từng xe, tôi bảo Nam: “Phải hơn 1 clic (mỗi cạnh ô vuông trên bản đồ tỷ lệ 1/50.000 = 1km) mới đến mục tiêu”. Có lẽ vì có trục trặc gì đó, Nam đã không chịu tiến quân tiếp, tôi bèn bảo Nam: “Mày cứ ở đó đi để tao cho C/Đoàn tao qua mặt.”
Tôi ra lệnh cho Tr/u Kính tiến tiếp, qua mặt C/Đoàn 3/20 CX, đồng thời ra lệnh cho C/Đoàn 2/17TK theo sau. C/Đoàn 1/20CX của tôi và C/Đoàn 2/17TK vừa qua mặt C/Đoàn của Nam xong thì tôi cho lệnh tăng tốc. Trên đường tiến quân, Tr/u Kinh báo cáo có rất nhiều giao thông hào phía trước, nhưng tôi cho lệnh: “Thấy giao thông hào nào rộng thì lách ra mé nước để vượt qua, còn giao thông hào nào hẹp thì cho chiến xa cán qua luôn.”
Trời sáng dần và sương mù đã tan. Tr/u Kinh báo cáo đã nhìn thấy rõ cửa biển trước mặt. Tôi bảo; “Bây giờ mới đúng là Cửa Việt.” Rồi cho lệnh toàn bộ C/Đoàn cho chiến xa xoay về bên trái và nới rộng khoảng cách chuyển thành hàng ngang để cho M.113 của C/Đoàn của Đ/u Cảnh tiến lên và xen kẻ. Tôi cũng bảo Nam và C/Đoàn 3/18TK của Đ/u Minh cũng dàn quân y như thế và bắt đầu tấn công hướng về căn cứ Cửa Việt.
Đạn địch từ phía trước bay đến như mưa, nhưng điều này cũng là chuyện bình thường đối với một đơn vị xung kích như chiến xa. Toàn bộ 4 C/Đoàn đã tiến sâu vào đất địch được khoảng 400m thì tôi nghe Đ/u Minh, C/Đoàn trưởng 3/18TK, báo có chiến xa địch xuất hiện từ hướng trái, tức là hướng Tây Nam của chúng tôi, từ trong rừng dương. Dĩ nhiên, M.113 không thể chọi với Chiến xa của địch, dù có gắn đại bác không giật 106 ly (vì việc sử dụng đại bác này không đơn giản như lý thuyết, vả lại xoay xở rất chậm vì phải lệ thuộc vào hướng của xe). Tôi bảo Đ/u Nam theo dỏi để bắn hạ.
Thật ra thì đơn vị chiến xa của địch đang ở hướng nam từ trong làng mé ruộng bung ra để chạy về hướng Bắc là căn cứ Cửa Việt. Với địa thế mấp mô lồi lỏm, nhắm canh chừng để bắn một mục tiêu di động không dễ chút nào, trừ phi phải có những xa đội M.48 đã từng hạ chiến xa địch. Vì những chiến xa của địch chạy rất nhanh nên C/Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam đã không bắn kịp. Nhưng C/Đoàn của tôi, vì đang dàn hàng ngang xa về hướng Bắc nên tôi đã tức tốc ra lệnh cho Tr/u Kính chỉ huy C/Đội đón bắn ngay (Tr/u Kinh là một trong những sĩ-quan nổi tiếng bắn đại bác rất hay kể từ ngày thành lập Th/Đoàn20CX vì đã được Mỹ huấn luyện rất kỷ và thực tập rất nhiều hồi ở căn cứ Ái-Tử. Với kinh nghiệm đã có, chính Tr/u Kính đã đón đầu bắn hạ 2 chiếc nằm im tại chỗ, chiếc còn lại bị một xa đội của C/Đội 3/1/20CX bắn hạ. (Những gì xảy ra trước mắt tôi nên không thể nào quên được).
Tôi liếc nhìn đồng hồ, lúc này là 07:43. Phía địch bắt đầu ngưng bắn nên tôi ra lệnh cho TQLC tùng thiết trên M.113 của C/Đoàn 2/17TK và 3/18TK nhảy xuống trước và bung ra phía trước cắm cờ, rồi bố trí, còn lính trên chiến xa và M/113 thì nhảy xuống sau và tiếp tục cắm cờ phía trước, cách chiến xa chừng 30m để phân ranh giới rồi lên chiến xa trở lại nạp đạn chài (canister- loại đạn đại bác dùng để chống biển người) vào đại bác để đề phòng. Chỉ trong thoáng chốc thì đồng hồ đã chi 07:57.
Không còn tiếng súng nổ. Tôi nhảy xuống khỏi chiến xa chỉ huy và vào xe truyền tin M.577 báo cáo thẳng về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC là đã chiếm được Cửa Việt và đã cắm cờ, nhưng không thể tấn công vào căn cứ còn cách chừng hơn 500m được vì đã đến giờ ngưng bắn. Tôi hỏi tiếp vị trí của các cánh quân khác thì được biết cánh quân của T/Đoàn2 và T/Đoàn 9TQLC trong mé ruộng chỉ tiến vượt qua khỏi Long Quang chừng 200m, như vậy là cách chúng tôi khoảng 5km về hướng Nam. Còn cánh quân của T/Đoàn 4 TQLC thì chỉ đến được gần Bình An. Như vậy thì còn cách chúng tôi đến hơn 5km.
Ngay lúc này, tôi nhìn ra biển thoáng thấy một chiếc L-20 đang bay lượn xa trên biển và bắn 2 qủa rocket xuống biển. Tôi gọi BTL/SĐ/TQLC và hỏi thì Đ/tá Trí bảo đó chỉ là bay ra để xác định chính xác vị trí đã chiếm được mà thôi.
Tôi cho Chiến xa chỉ huy của tôi cùng với chiếc M.577 truyền tin và chiếc M.113 lùi lại cách mé nước biển chừng 40m, báo cho các C/Đoàn vẫn lo việc canh gác như thường lệ, rồi cho lính pha cà phê trong C-ration (thùng lương khô) để uống và cho lo cơm nước.
Như vậy, BCH/C/Đoàn của tôi nằm xa nhất về hướng Bắc. Lui về phía nam là BCH/C/Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh, cách nhau chửng 70m. Xa hơn chừng 100m nữa về phía Nam là BCH/C/Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam + C/Đoản 3/18TK của Đ/u Minh + BCH/Th/Đoàn 20CX của Th/tá Kiều cùng với Th/tá Tiền, TĐP T/Đoàn 4TQLC và Tr/u Hiếu, Đ/Đội trưởng ĐĐ2/TĐ4TQLC tùng thiết cho C/Đoàn 3/18TK. Tôi bào Đ/u Nam phải cẩn thận đề phòng hướng Nam vì chắc chắn còn lực lượng địch trong những làng mà trước đó chúng tôi chỉ dùng tốc dộ càn lướt qua mà không tấn công.
Tóm lại, chúng tôi chỉ có 2 mặt an toàn: phía biển Đông sau lưng và cửa biển bên phải về hướng Bắc. Còn 2 mặt Tây và Nam thì đều có địch. Nếu cuộc chiến vẫn tiếp tục thì đường tiếp tế của chúng tôi đã bị chặn do TQLC không tiến kịp để điền trám các mục tiêu dọc trục tiến quân.
02 May 1972, Quang Tri, Vietnam — South Vietnamese soldiers helping the wounded. — Image by © Henri Bureau/Sygma/Corbis.
Dù sao thi Niềm Vui Hòa Bình đã đến, tức là không còn chiến tranh, không còn bắn giết, không còn phải chiếm mục tiêu này, mục tiêu nọ, không còn bị tấn công, không còn bị thương hay chết chóc, mà sẽ được cùng với người thân, bạn bè thoải mái vui chơi trong những ngày nghỉ phép, vân vân và vân vân…Tất cả đều được diễn đạt theo nhiều cách. Kẻ thì bộc lộ quá mức bằng cách reo hò, kẻ thì thầm lặng, dấu kín trong lòng và chỉ bộc lộ bằng nụ cười mỉm. Mùi thuốc súng chiến trường không còn lảng vảng trong bầu trời trong sáng và êm ả của vùng biển…
Khoảng 10:15, Tr/u Kính báo có cấp chỉ huy của địch muốn vào gặp cấp chỉ huy trận đánh này. Tôi gọi máy báo cho Th/tá Kiều, nhưng ông bảo là không nên gặp. Tôi nói: “Nhưng bây giờ là Hòa Bình rồi thì có gì phải sợ chứ.” Ông trả lời: “Câu muốn gặp thì gặp, nhưng phải cẩn thận.” Tôi bảo Tr/u Kính chỉ cho người đó và một lính truyền tin của ông ta vào mà thôi.
Khi họ đến, tôi xuống khỏi chiến xa và đến gần anh ta (lớn hơn tôi chừng hơn 10 tuổi), chưa kịp chào thì anh ta tự giới thiệu là T/Đoàn trưởng của đơn vị đang ở tuyến đối đầu với tôi, và hỏi tiếp có phải tôi là người chỉ huy cuộc tấn công này không. Tôi trả lời: Đúng như vậy. (Có lẽ anh ta ngạc nhiên khi thấy bộ mặt non choẹt của tôi mà lại chỉ huy một lực lượng lớn như thế. Còn hỏi tôi là người ở đâu. Tôi nói ở Huế. Anh ta nói là đã vào trong Thành nội Huế trong vụ Tết Mậu Thân. Anh ta tiếp tục hỏi tại sao tôi lại chiếm Cửa Việt. Vì đang trong tâm trạng vui vẻ nên tôi trả lời là tôi rất thích nơi này vì tôi rất thích tắm biển, nhất là nơi nào có cửa biển. Đặc biệt anh ta còn than phiền vì sao tôi lại cho lệnh bắn 3 chiến xa của họ. Tôi nói: vì lúc đó vẫn chưa đến giờ ngưng bắn. Tôi còn nói với anh ta nên cho vài người không được mang súng vào rồi đi xuống hướng nam để đào các giao thông hào đã bị chiến xa cán lướt xem ai còn sống thì mang về. Anh ta gật đầu và còn ngỏ ý mời tôi vào BCH/TĐoàn của anh ta chơi, đưa tay chỉ vào lùm dương cách vòng đai bố trí của chúng tôi chừng 500m. Tôi chỉ ừ è cho có lệ. Sau đó thì anh ta ra về. Tôi tà tà đi bộ dọc theo mé biển đến gặp Th/tá Kiều và kể lại chuyện này cho ông nghe. Ông nhắc nhở tôi phải cẩn thận vì ý đồ của anh ta có thể chỉ là vào để biết vị trí của BCH. Tôi chỉ nói: có thể là như vậy, nhưng Hòa Bình rồi thì lo làm gì cho mệt chứ.
Đến tối ngày 28/01/73, sau khi nhắc nhở toàn bộ 4 C/Đoàn trực máy và lo canh gác như thường lệ, thay vì ngủ trong xe M.577, tôi bảo lính căng ghế bố nằm bên hông chiến xa cho mát, nghĩ rằng bây giờ đã đến lúc phải hưởng một giấc ngủ êm ái nhất trong đời lính và hít thở không khí về đêm của biển, nhất là sau 1 ngày và 1 đêm vất vả chiến đấu và không ngủ. Trong đời, thật chẳng ai biết được chữ ‘Ngờ’. Tôi đang ngủ say sưa thì bổng nhiên những tiếng nổ thật lớn khiến tôi bừng giấc, đứng vọt dậy từ chiếc ghế bố và phóng thật nhanh lên chiến xa chỉ huy, nhìn quanh, những tiếng nổ và chớp lòe khắp nơi. Tôi biết chúng tôi đang bị pháo. Lúc này tất cả đều đã vọt dậy phóng lên chiến xa và M.113. Tôi gọi các C/Đoàn thì tất cả cũng đã lên xe và nghe báo cáo đã có mấy anh em ở các C/Đoàn khác bị thương do bị pháo. Tôi ra lệnh tất cả sẵn sàng ứng phó, vì theo kinh nghiệm, địch có thể sẽ tấn công sau những đợt pháo.
Tôi nhìn đồng hồ: 23:25 (ngày 28/01/73). Như vậy là mình bị pháo lúc khoảng 23:10. Lo thì cũng có lo, nhưng đạn pháo thì giống như “Trời kêu ai nấy dạ” (câu chúng tôi thường đùa với nhau khi bị pháo, vì không sao né tránh gì được). Tôi tự hỏi: “Hòa Bình rồi thì tại sao chúng nó vẫn còn pháo mình. Như vậy là vi phạm Hiệp Định rồi còn gì!” Trên hệ thống truyền tin, tôi không nghe Th/tá Kiều lên tiếng gì cả bèn chuyển qua hệ thống của BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cáo cũng như nêu thắc mắc của tôi: “Hiện chúng tôi đang chịu những cơn mưa rất nặng hạt (bị pháo dữ dội). Như vậy là sao? Nếu chúng tấn công thì chúng tôi có được phép nổ súng không? Và điều này rất có thể xảy ra. Và thế thì mình có vi phạm Hiệp Định Paris không?” Ngay lúc này Tr/u Kính và Th/u Thăng báo lả đã thấy địch lố nhố phía trước nhờ ánh sáng của những lằn chớp của đạn pháo nổ. Tôi hỏi: “Cách xa bao nhiêu?” Tr/u Kinh nói: “Chừng 70m. Có bắn không, Hồng Nhạn?” Như vậy là cách tuyến của TQLC tùng thiết chừng 40m. Với phản ứng cấp thời, tôi nói: “Chưa nhận được lệnh. Nhưng nếu chúng nó tiến gần trong khoảng 50m thì phải nổ súng.” Lúc này Đ/tá Trí gọi máy và báo: “Nếu chúng nó tấn công và nổ súng trước thì phải chống trả”. Trời đất! Nếu chúng nó cứ ào ào tiến vào mà không nổ súng thì tình sao đây! Tôi biết tại BTL/Hành Quân/SĐ/TQLC, ai cũng có thể nghe và thấy được những tia chớp do đạn pháo nổ vì chỉ cách chúng tôi chừng hơn 8Km, vả lại đang là ban đêm, nhưng không biết rõ là do pháo hay do 2 bên đang giao chiến. Đây là lúc không cần và cũng không có thời gian để suy nghĩ vớ vẫn về Hòa Bình, về Hiệp Định Paris nữa, mà phải tùy cơ ứng biến thôi. Tôi báo cho Đ/u Nam (3/20CX) và Đ/u Minh (3/18TK) biết tình hình địch phía bên tôi và hỏi tình hình bên đó thì biêt là không có dấu hiệu địch hoạt động trước tuyến. Tuy vậy tôi vẫn bảo Nam và Minh phải cẩn thận quan sát. Đồng thời tôi cũng báo cho Tr/u Công (TQLC tùng thiết) là chỉ được nổ súng khi địch nổ súng tấn công trước. Tôi cũng thầm nghĩ: Chắc địch muốn tấn công vào tuyến phòng thủ của tôi trước vì là tuyến đầu nằm xa nhất về hướng Bắc và còn ngay trước căn cứ Cửa Việt.
Tôi gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và yêu cầu cho Pháo binh chuẩn bị để phản pháo vào những tọa độ tôi sẽ cung cấp, hy vọng địch sẽ vì thế mà giảm bớt cường độ pháo. Nhưng Đ/Tá Trí bảo là không được. Tôi chẳng biết nói sao. Có lẽ ai cũng sợ vi phạm Hiệp Định và nếu thế thì số phận tương lai của cấp ra lệnh sẽ ra sao nếu bị kết tội. Pháo của địch vẫn dồn dập đủ loại vào vị trí của các C/Đoàn, ngoài loại 130 ly, còn có cả cối 82 ly. Cũng may chẳng có qủa nào rơi ngay trên Chiến xa M48 hay M113.
Tôi nhìn đồng hồ: đã là gần 05:00 ngày 29/01/73. Thời gian trôi thật nhanh khi người ta không cần để ý đến nó. Tôi mừng thầm và mong cho trời sáng nhanh hơn. Như vậy mới dễ quan sát và xoay xở hơn. Bổng Tr/u Công gọi máy báo địch chỉ còn cách tuyến của TQLC chừng hơn 10m. Tiếp là Tr/u Kính cũng báo địch đang tiến đến gần hơn nhưng lại không nổ súng. Không thể chần chừ được nữa, tôi bảo Tr/u Công cho lệnh TQLC bò lui về ngang với các Chiến xa M.48 ngay. Chỉ 3 phút sau, tôi bảo Tr/u Kinh và Th/u Thăng ra lệnh cho các xa đội bắn đạn chài và mỗi xe chỉ cần bắn 1 hay 2 qủa tùy phản ứng của địch. Một loạt đạn chài từ các các đại bác chớp sáng liền nhau. Tr/u Kính và Th/u Thăng lần lượt báo địch đã im lìm, không còn thấy lố nhố nữa. Tôi bảo: “Phải quan sát liên tục và cẩn thận hơn, vì chỉ còn chừng 1 giờ nữa là trời sáng rồi thì tụi nó chẳng dám tấn công đâu.” Cũng chừng hơn 5 phút sau thì Tr/u Kính báo đã quan sát thấy địch lại lố nhố nhưng hình như là đang tải thương vì chúng đang lùi lại. Tôi nói: “Thế thì tốt!”
Nhưng vẫn thầm lo không biết mình cho lệnh bắn như thế có vi phạm Hiệp định không. Mặc kệ! Với tình hình hiện tại, lo nghĩ vẫn vơ cũng vô ích. Phải tự cứu mình trước thôi! Không thể để “nước đến trôn mới nhảy”, như người xưa đã nói.
Địch vẫn pháo khắp vị trí của các đơn vị TG, nhưng vì lính TG đều ở trong chiến xa và M/113, và chỉ quan sát bằng tiềm vọng kính nên không bị gì. Còn TQLC thì đang ở gần sát với địch nên pháo hầu như không rơi nhiều ở tuyến này. Trời bắt đầu sáng dần. Tôi nhìn đồng hồ: bây giờ là 06:30. Sương mù đã tan gần hết nên tầm quan sát xa và tốt hơn. Tôi cũng tạm thời yên lòng. Tôi gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cho biết những gì đã xảy ra trong đêm và hỏi xem có lệnh gì mới không thì Đ/Tá Trí nói: “Tạm thời thì phải cố thủ. Sẽ có lệnh sau.”
Một điều đặc biệt là các đơn vị Pháo Binh yểm trợ cho cuộc Hành Quân Tango hoàn toàn không phản pháo yểm trợ một viên đạn nào, ngoại trừ thời gian trước khi Cánh A của tôi bắt đầu xuất phát rồi thì ngưng luôn từ đó. Mặt trời đã lên khá cao. Bây giờ là 08:05. Pháo địch bổng nhiên nổ thưa dần, rồi lâu lâu mới bay vào nổ 1, 2 qủa. Lính TG lợi dụng lúc này nhảy ra khỏi xe nấu nước sôi đổ cơm sấy, còn tôi thì chỉ cần cà phê nóng.
Đến khoảng 08:35 thì pháo địch ngưng hẳn. Tất cả chúng tôi đều thở phào nhẹ nhỏm. Tôi gọi máy cho Đ/u Cảnh, Nam và Minh và nói: “Có lẽ đã có sự can thiệp của mấy ông lớn về Hiệp Định Paris rồi nên tụi nó mới chịu ngưng pháo. Nhưng phải luôn cẩn thận đấy!” Tôi cũng gọi báo cho Đ/Tá Trí về việc này.
Kỵ Binh Đặng Hữu Xứng