NHỮNG NGƯỜI TÙ CUỐI CÙNG (2) – Phạm Gia Đại

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail
Phần VI: Ba Người Tù Tổ Điện

Cuộc đời con người ta trong cõi trần gian này cũng giống như con thuyền nan lênh đênh trên giòng nước, có lúc nó trôi thật êm đềm như lượn lờ thơ mộng dưới ánh trăng, có nhiều lúc nó như nhỏ bé li ti trên giòng nước mà lao đao qua bao thác ghềnh và giông bão gian nguy, nhưng nếu vững tay chèo lái thì con thuyền ấy vẫn đến được bến bờ hạnh phúc bình yên.

Mỗi lúc nhìn lại thì hình như có một bàn tay mầu nhiệm nào đó đã che chở cho con thuyền nan ấy đã không tan tành ra mảnh vụn khi bị cuốn hút vào cơn cuồng nộ của những bão táp phong ba trên sóng nước đục ngầu một mầu đỏ.
Quả thật vậy, chúng tôi đã vừa vượt qua được bốn năm đầu tiên gian khổ thiên nan vạn nan nhất trong cuộc đời tù tội và lưu đầy từ miền Nam ra xứ Bắc với những mùa Hè nóng như thiêu như đốt và mùa Đông lạnh cắt vào da thịt của những người tù vốn đã gầy ốm và chẳng còn hơi sức.
Bao nhiêu người đã ngã xuống tan tành như chiếc thuyền nan không qua khỏi cơn bão nhưng những người còn lại thì vẫn đứng thẳng người bước về phiá trước dù là họ chỉ còn như cây sậy hay bộ máy biết cử động theo từng tiếng kẻng đánh thức dậy chuẩn bị một ngày lao động mới và lên chiếc chiếu chỗ nằm của mình theo tiếng kẻng đi ngủ.
Lúc đó khoảng đầu năm một chin bẩy chín khi mà những người tù đang đi đến vực sâu của tuyệt vọng thì bỗng đâu ánh sáng nhiệm mầu hiện ra như nước cam lồ bắt đầu soi chiếu xuống trại giam và hai điều thần kỳ bắt đầu xẩy ra cùng một thời gian đã vực họ sống lại.
Điều kỳ diệu thứ nhất là những chuyến xe chở hàng thăm nuôi bắt đầu đến các trại giam ở miền Bắc để tiếp tế cho những người tù sau bốn năm họ đã phải cố gắng sống còn với khẩu phần ăn ít ỏi, với áo quần mong manh, để chống lại cái lao động khổ sai, cái mưa phùn gió bấc mùa Đông có thể làm họ ngã gục bất cứ giờ phút nào.
Đầu năm ấy, phía trại giam họ thông báo như là một ân huệ của chính sách “khoan hồng nhân đạo” của Nhà Nước cho các người tù được viết thư về gia đình để xin các thứ cần thiết nhưng tuyệt đối không được tiết lộ tên trại nơi giam giữ ở miền Bắc mà phải đề là đang bị giam tại trại giam 50-A Chí Hòa – Sàigòn, miền Nam.
Báo hại cho Mẹ tôi tưởng thật là con mình còn ở miền Nam nên đã chuẩn bị rất là công phu những thứ gì gửi cho tôi đầy cả một giỏ và mang các món ăn nóng mà trước kia tôi rất thích như chả giò, giò lụa, chả quế đem đến tận trại giam Chí Hòa và năn nỉ tên lính gác cho vào thăm tôi.
Tay lính gác đó đương nhiên là từ chối thẳng thừng vì tụi tôi làm gì có mặt tại Chí Hòa thời gian ấy mà cho Mẹ tôi vào thăm với nom.
Cuối cùng năn nỉ mãi không được, Mẹ tôi đành rưng rưng nưóc mắt mà bỏ giỏ quà lại đó cho họ và đi về mà trong lòng dâng lên một niềm căm phẫn khôn nguôi đối với cái chế độ XHCN ác độc này.
Các gói quà đó đã được tập trung hết lại để xe tải quân đội của họ chuyên chở từ Nam ra Bắc hết ba ngày đêm cộng thêm một ngày trại kiểm tra nữa, nên khi tôi ra nhận vào rồi mở ra thì các thức ăn đã đóng thành một khối mốc meo xanh xám không nhận ra được món gì cả.
Trong lúc đang cần thức ăn bồi dưỡng, nhìn gói quà đầu tiên từ gia đình gửi cho sau bốn năm trời không liên lạc, tôi và tên bạn thân là Luận nằm bên cạnh cố gắng mà cũng không phân tích được là món gì trong đó cho đến khi thư của Mẹ tôi trại kiểm duyệt xong đưa lại thì tôi mới thấy tiếc và thương Mẹ tôi cất công đi gửi cho con mà chẳng được gì.
Dầu sao thì cũng còn vài thức ăn khô, một tuýp kem đánh răng Leyna, và vài bộ quần áo lót lấm lem với các mốc xanh xám ấy.
Việc họ cho thăm nuôi nhận quà gia đình chẳng phải vì lòng nhân đạo thương tiếc gì mấy người tù chính trị này mà vì hai lý do.
Lý do thứ nhất là thế giới đặc biệt tại Mỹ và Châu Âu đang dấy lên phong trào cứu giúp thuyền nhân vượt biển, lên án chế độ Cộng Sản cai trị hà khắc phi nhân nên dân chúng đã phải lao ra biển đi tìm Tự Do trong cái chết; và đòi thả hết các tù chính trị.
Lý do thứ hai là số tù chết và bệnh tật trong trại lên cao, những người tù còn sống thì hầu hết đã quá suy dinh dưỡng và sắp hết khả năng lao động để làm ra của cải vật chất cho trại nên phía Nhà Nước Cộng Sản đẩy trách nhiệm qua cho gia đình để họ đỡ tốn kém mà lại được tiếng với thế giới.
Gia đình thì vì lòng thương xót của cha mẹ dành cho con, vợ dành cho chồng mà cố gồng gánh thêm việc thăm nuôi trên đôi vai vốn đã trĩu nặng những âu lo trong cuộc sống mới dưới chế độ xã hội chủ nghĩa đầy những cam go, tinh thần thì bị khủng bố liên tục, và tương lai thì bất định.
Dầu sao thì những đợt thăm nuôi đầu tiên tựa như giòng suối tiên tưới vào những cành cây đã bao năm khô héo và làm nó sống lại.
Những người tù chính trị như vươn vai đứng dậy sau bao năm say ngủ và sức khoẻ của họ cũng hồi phục được một phần.
Điều kỳ diệu thứ hai cùng trong năm bẩy chín là tất cả tù đã được di chuyển từ các trại Hoàng Liên Sơn ở miền biên giới Việt-Trung và từ Vĩnh Phú xuôi về miền trung du và đồng bằng với khí hậu bớt khắc nghiệt hơn để tránh cuộc chiến tranh sắp xẩy ra giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Việc di chuyển trại khởi nguồn từ một hai năm trước đã xẩy ra tình trạng giết người Việt hàng loạt gọi là “cáp duồn” bên Campuchia, không những nhắm vào thường dân mà các bộ đội Bắc Việt cũng cùng chung số phận.
Thây người bị giết bị chặt đầu thả trôi đầy trên sông. Đa số các đơn vị Bắc Việt tại Miên bị tấn công là thành phần thân Nga Sô.
Để tái lập trật tự và nắm quyền kiểm soát lại Campuchia, phía Hà Nội đã tung ra một cuộc hành quân qui mô với bộ đội chính qui của họ để càn quét Khmer Đỏ bên Miên năm một chín bẩy tám và một chính phủ thân Hà Nội được thiết lâp lên tại Nam Vang.
Việc này đã động chạm đến quyền lợi của Trung Cộng và Bắc Kinh quyết định dậy cho Việt Nam một bài học. Nhờ đó mà hàng chục ngàn người tù chính trị chế độ cũ hầu hết là các sĩ quan đã được vội vã chuyển trại sâu xuống phía nam trước khi cuộc chiến diễn ra tại sáu tỉnh biên giới vào đầu năm một chín bẩy chín.
Tình cờ, anh cả của tôi là Thiếu Tá sư đoàn 5 BB và tôi đã mất liên lạc ngay trước ngày Sàigòn sụp đổ, được chuyển về cùng trại với tôi và hai anh em đã gập nhau thật là ngẫu nhiên một cách lạ lùng.
Mẹ tôi khi hay tin cũng thầm cảm ơn Trời Phật là hai anh em đã gập được nhau và ở cùng một trại để cho việc thăm nuôi dễ dàng hơn.
Tôi cũng rất mừng là có dịp chăm sóc cho anh mình vì ông anh cả của tôi tính tình rất là thờ ơ chẳng để ý đến chuyện gì hết, cho nên bao nhiêu gói quà gia đình gửi vào cho hai anh em, anh ấy giao cho tôi giữ hết để ăn chung và chia sẻ cho các anh em còn thiếu thốn.
Trước đó, tôi chỉ biết anh tôi khóa 20 Võ Bị Đà Lạt và cậu em họ là Tạ Mạnh Huy khóa 19 Đà Lạt cũng bị giam ở miền Bắc nhưng không rõ ở những trại nào vì lúc đó hằng trăm trại giam cho tù chính trị mọc lên như nấm suốt từ Nam qua miền Trung ra Bắc đến tận các vùng biên giới.
Sau một loạt “biên chế” thì buồng giam của tôi nhận thêm ba người mới- đó là ba anh cấp bực Trung Tá làm trong Tổ Điện mà tôi đã có duyên được quen biết.
Ba người tù trong Tổ Điện này là bộ phận duy nhất phụ trách toàn bộ máy chạy điện và các đường dây trong ngoài trại và cũng là những con người mà tôi vô cùng khâm phục về trí thức về sự can trường và cách sống của họ.
Lúc đó, một phần lớn anh em đều đã được gia đình trong Nam, hay thân nhân ngoài Bắc đến thăm, hay gửi hàng qua bưu điện, nhưng ba anh Tổ Điện này thì vẫn chưa. Tôi và một số anh em trong phòng đã đem ít thực phẩm, trà thuốc đến biếu ba anh và rồi quen nhau thật là thân tình lúc nào không hay.
Ba anh gọi nhau theo thứ tự gia đình, anh Hai là người Bắc lớn tuổi hơn, Trung Tá Không Quân có bằng Master khi du học tại Hoa Kỳ, người đọc được bẩy thứ tiếng; kế là anh Ba người miền Nam hiền lành và ít nói, Trung Tá tốt nghiệp kỹ sư Phú Thọ; và anh Tư cũng là người Bắc, Trung Tá Hải Quân rất giỏi về cơ khí.
 Ban đầu tôi thân với anh Tư hơn vì anh rất là cởi mở vui vẻ và sởi lởi, nhưng dần dần tôi và anh Hai lại thân hơn vì tôi nhìn thấy ở anh ngoài tính gương mẫu của cấp chỉ huy, là sự hiểu biết uyên bác của anh và sự dũng cảm đương đầu với số phận và không nhận một sự gia ân nào từ phía cán bộ trại và gia đình họ.
Tôi để ý thấy trong buồng giam anh Hai chỉ nói chuyện xã giao với mọi người nhưng lại đặc biệt tâm sự nhiều nhất với tôi mỗi buổi tối trong các buổi trà đàm. Anh có cái dáng dong dỏng cao, bước đi rất là khoan thai lúc nào cũng nhàn nhã và khuôn mặt trí thức với cặp kính trắng và thỉnh thoảng nói chuyện lại cười thật tươi lộ chiếc răng khểnh rất là có duyên.
Công việc của các anh tuy không nặng nhọc bằng lao động ngoài hiện trường hay đồng áng nhưng có những ngày mùa Đông lạnh căm căm giá buốt, mấy anh đi sửa điện cho khu gia binh mà bắt mãi không được mấy con ốc vít vì quá đói làm cho tay run lên và đến hoa cả mắt đành phải ngồi xuống nghỉ một lát.
Bất chợt có một cán bộ nữ có lẽ biết tình cảnh thiếu thốn trong trại nên từ trong nhà đem ra cho các anh một đĩa xôi lạc mà chị ta vừa nấu xong vẫn còn nóng.
Lúc đó, một củ khoai một củ sắn cũng quá là quí rồi chứ đừng nói gì đến xôi lạc nữa là điều không ai dám mơ ước, nhưng anh Hai nhất định bảo anh Tư phải đem vào trả lại và cám ơn họ.
Chị cán bộ kia lại bước ra ân cần đưa tận tay anh đĩa xôi, nhưng anh vẫn nhất quyết từ chối và cám ơn một cách từ tốn.
Một điều không ai ngờ là người nữ cán bộ này sau đó lại đem lòng thương yêu anh Tư và gửi cho anh những lá thư chứa đầy tình thương và tình người và thổ lộ rằng các anh là thần tượng của khu gia binh và của cô ta nữa và vì các anh hoàn toàn khác hẳn với đám cán bộ luôn bon chen, lừa gạt lợi dụng lẫn nhau mà cô ta phải sống và làm việc cạnh nhau hàng ngày.
Anh Tư có lần đã cho tôi xem một phần bức thư ấy và nói rằng anh rất cảm động nhưng hai chiến tuyến ngăn cách và anh đã gập người phụ nữ ấy và nói rằng anh rất cám ơn tình cảm chân thành dành cho anh nhưng anh không thể đáp lại tình cảm ấy được nhất là tin tức gia đình anh vẫn biệt tăm mấy năm nay.
Tối hôm đó, tôi ngồi tâm sự rất lâu với anh Tư và hết sức an ủi anh rằng gia đình anh chắc còn khó khăn chưa xin phép địa phương đi thăm anh được mà thôi. Nhưng có điều tôi cũng không ngờ rằng sau này chính tôi lại rơi vào tình trạng bi thương tương tự như vậy.
Những nghĩa cử mà tổ điện đã giúp đỡ cho khu gia binh đã làm cho họ nhìn chân ra được sự thực là những người tù này chẳng phải ăn gan uống máu người như phía Nhà Nước họ vẫn tuyên truyền mà là những người đầy lòng nhân ái luôn giúp đỡ tận tình cho khu gia binh không nề hà khó nhọc, không những về điện nước mà còn phổ biến cả kiến thức phổ thông giúp cho họ hiểu cách sống và cách ăn uống như thế nào để phòng tránh bệnh tật và còn chỉ dậy cho con cái họ nữa.
Từ khi các anh lo cho đường dây điện của trại thì tình trạng bị cúp điện ít khi xẩy ra nữa và cái máy phát điện cũ kỹ từ thời Pháp để lại cũng được sửa chữa và thay thế nhiều bộ phận cần thiết nên ít hư hỏng hơn trước.
Không những tay cán bộ Tổ Điện tỏ ra có thiện cảm và nể nang với cả ba anh thợ điện dưới quyền mình mà hầu như toàn thể khu gia binh đều bàn tán nhiều về ba người tù học thức và “khác thường” này.
Chính ba anh cũng là một trong nhiều anh em đã biến đổi cách nhìn của cán bộ trại đối với tù chính trị từ hận thù qua cảm thông và không khí ngột ngạt không còn nữa và phía bên tù hình sự cũng tự nhiên ngưng các việc chửi bới vu vơ và nhục mạ nhắm vào bên tù chính trị.
Trong thời gian quen biết và ở cùng phòng với ba anh trong Tổ Điện tôi học hỏi được rất nhiều, không những về kiến thức, sự nhận xét tinh tế của anh Hai, sự thâm trầm bình thản chấp nhận số phận của anh Ba và sự năng động thích ứng với mọi hoàn cảnh của anh Tư; mà nhờ đó sau này tôi biết cách ứng xử và thich nghi nhanh hơn với mọi tình huống để tồn tại khi mà càng về sau lại càng đòi hỏi người tù một tinh thần vững vàng bình tâm hơn nữa nêú muốn sống còn.
Thời gian đó, ngoài việc gia đình đến thăm đem lại nguồn sống cho những người tù về vật chất mà còn làm tinh thần họ vươn lên cao khi biết tin tức gia đình, và nhất là tin tức về những hội đoàn như Hội Tù Nhân Chính Trị của bà Khúc Minh Thơ, của các cá nhân Việt-Mỹ đã tranh đấu với chính phủ Mỹ để làm áp lực buộc Hà Nội phải sớm thả hết các tù nhân, và về sự đặc biệt quan tâm của Tổng Thống Ronald Reagan đối với vấn đề tù chính trị.
Một điều tôi không ngờ là tin tức của ba anh thợ điện, đúng ra là từ anh Hai lại vô cùng chính xác về những cam go trong các công cuộc tranh đấu này. Những tin tức anh cho biết, tôi lại thông báo kín đáo cho các bạn thân và nhờ đó mà hầu hết anh em đều hay tin vui này và giữ được sức khoẻ để đi nốt quãng đường còn lại.
Khi biết với phương tiện nào mà các anh đã thâu lượm được những tin tức quí giá và hoàn toàn chính xác như thế thì tôi lại càng khâm phục ba anh, nhất là anh Hai là người đầu não của tổ đã có những s áng kiến thật là độc đáo về kỹ thuật thông tin.
Cũng nhờ vào những tin tức phấn khởi liên tục như vậy từ những gia đình thăm nuôi đem đến và từ anh Hai tiết lộ cho tôi và vài người bạn thân trong nhóm, rồi loan truyền đi qua các buồng giam khác đã thực sự đem đến cho chúng tôi một niềm tin rằng mình sẽ có ngày trở về.
Bởi vì Cộng Sản Việt Nam đã dập khuôn đúng theo trại tập trung “cải tạo” của Liên Xô, cứ hết ba năm tù thì lại chồng thêm ba năm nữa không cần kêu án và người tù cũng không cần phải ra trước tòa làm gì mất thì giờ.
Bởi vậy khi người dân ngoài Bắc nghe đến chữ tập trung “cải tạo” là họ đều rùng mình sợ hãi còn hơn là bản án tù chung thân.
Tôi gập hai cậu nhỏ có lẽ chỉ 17 tuổi bên tù hình sự, cả hai đều bị bắt về một tội là trộm một con gà nhưng cái cậu bị bắt quả tang thì lãnh án 5 năm còn cậu kia chỉ vì bạn mình khai ra thôi và dù là không bị bắt quả tang thì bị lãnh án tập trung cải tạo.
Sau ba năm được giảm án, cậu bé 5 năm tù được thả ra về còn cậu kia vẫn còn trong tù vì hết ba năm rồi thì tự động cứ chồng thêm ba năm án tù tập trung nữa không cần xết xử bởi gia đình cậu ta chẳng có tiền mà đút lót cho chuyển qua có án. Luật pháp dưới chế độ XHCN là như vậy đấy.
Từ khi có gia đình đến thăm, hình như cái nghiệp chướng tù đầy cũng vơi đi nhiều và chúng tôi tìm thấy niềm vui bên cạnh nhau uống chén trà hút điếu thuốc và hàn huyên mỗi buổi tối.
Những cuối tuần vào tối thứ Bẩy thường hay có party văn nghệ bỏ túi và không ngờ trong anh em xuất hiện nhiều tài năng, có những người hát rất hay đàn thật giỏi. Trong caí không khí vắng lặng của trại giam, vì các cán bộ trại đều kéo hết ra chơi ngoài thị xã ngay từ chiều thứ Bẩy, những bài hát tình cảm ngày xưa như “Chiều trên phá Tam Giang”, “Thuyền Trăng”, “Thiên Thai”,”Nha Trang Ngày Về”, “Hòn Vọng Phu”, “A time for us”, “Love Story”,  v.v.  đã như cho ta sống lại cái không khí của ngày nào thật thơ mộng và êm đềm, ngày nào thật là hạnh phúc khi còn ở Sàigòn năm xưa và tạm quên đi số phận tù đầy.
Các cán binh đi gác hay đi tuần tra ban đêm không ngờ cũng là những khán giả thuờng xuyên của các phòng trà bỏ túi đó.
Ban đầu thì họ khuyến cáo giải tán văn nghệ đi để đi ngủ, nhưng anh em đưa cho họ điếu thuốc ba số 5 hay bi thuốc lào ngon, chung nước trà móc câu thì họ đều ngồi lại bên ngoài cửa song sắt bỏ cả súng ống qua một bên để nghe nhạc.
Nhiều lúc họ kéo nhau hai ba đứa đến một lúc bỏ cả canh gác, ngồi ngoài cửa sổ cùng uống trà hút điếu thuốc và cùng thưởng thức những bản nhạc ngày xưa và còn yêu cầu các bài bài mà họ thường nghe tại các party bỏ túi này. Họ nói rằng nhạc của các anh hay quá và thích nghe hơn là các bài hát tuyên truyền vẫn phát ra rả hàng ngày qua loa phóng thanh.
Anh Hai cũng tâm sự với tôi rằng trước kia vì có bằng cấp bên Mỹ nên khi về nước, anh đã được đơn vị biệt phái qua làm việc với một bộ phận Quân Báo của Đệ Thất Không Đoàn HK trong Tân Sơn Nhất và được người Mỹ rất tin cậy cho nên được tháp tùng theo trong một vài phi vụ bí mật thử các loại vũ khí mới của HK trên chiến trường miền Nam.
Anh nói rằng người Mỹ họ không muốn chiến thắng chứ với những vũ khí tối tân như hiện nay chiến lược biển người kiểu như Việt Minh tại Điện Biên Phủ 1954 hay Trung cộng áp dụng biển người tại cuộc chiến Triêù Tiên 1950 đã hoàn toàn lạc hậu và hoàn toàn vô tác dụng.
Để giải vây cho một tiền đồn của một đại đội Dù 101 Mỹ trên ngọn đồi trong vùng Khe Sanh đang bị hai trung đoàn quân Bắc Việt bao vây với ý đồ sẽ làm cỏ đại đội này, không quân HK đã được trưng dụng để thử một loại vũ khí mới.
Hai trái bom đã thả xuống hai trung đoàn địch là loại bom nhằm hút hết chất nước trong người ra trong chu vi một cây số vuông. Chỉ nửa tiếng đồng hồ sau thì không còn nghe những tiếng gào thét tấn công man rợ của lính Bắc Việt nữa và chiến trường đột nhiên im tiếng súng vì quân Bắc Việt đã âm thầm tháo chạy hết bỏ cả cờ xí, súng ống.
Không quân HK còn đem thử cả loại súng bắn bằng tia Laser để triệt hạ một họng pháo phòng không mà Bắc Việt đã dấu trong lòng núi cũng trong khu vực Khe Sanh.
Khẩu phòng không này rất lợi hại vì ẩn trong núi nên nó đã hạ nhiều loại máy bay của VNCH và Mỹ bay qua trong vùng làm cho tôi nhớ đến cuốn phim “Les Canons de Navarrone” với hai họng súng khổng lồ của Đức Quốc Xã dấu trong hang núi đã bắn chìm bao nhiêu chiến hạm Đồng Minh khi qua vùng vịnh đó và cuối cùng nhờ đến toán biệt kích Anh Mỹ xâm nhập được vào tận nơi mới đặt mìn triệt hạ được hai họng đại pháo này.
Loại súng gắn tia Laser này được đặt trên một vận tải cơ và khi đến nơi nó đã cắt họng súng phòng không của Bắc Việt ra từng mảnh như cắt bánh và ánh sáng của nó đã làm cho các pháo thủ địch bị mù mắt chỉ còn biết đắt díu nhau xuống núi.
Anh nhìn tôi và nói rằng tiếc là người Mỹ họ không giúp chúng ta đến nơi đến chốn chứ chúng ta không thua trận.
Trong ba người, anh Hai lại đặc biệt hợp với tôi và mỗi lần chín giờ đêm khi anh tan ca trực và được đưa lại vào buồng giam cũng đi ngang qua chỗ tôi nằm nói nấu ít trà.
Lúc đó tôi biết ngay là anh có điều gì muốn kể lại sau một ngày ra ngoài công tác hay có được tin gì hấp dẫn, và thời gian cứ thế tuần tự trôi đi cho đến vài năm sau thì ba anh được chuyển trại vào trong Nam và chúng tôi xa nhau từ đấy.
Tối hôm ấy anh kể cho tôi nghe hai chuyện đáng chú ý.
Câu chuyện thứ nhất chiều hôm đó khi anh đang đứng canh máy điện cạnh một con đê chạy sang một làng bên kia sông thì thấy một bà cụ chống gậy định đi hướng vào ngôi làng thì rẽ qua gặp anh.
Nhìn cái áo Treillis mầu hoa rừng anh đang mặc hỏi có phải anh là tù chính trị trong trại không và cấp bực gì rồi cho anh vài cái bánh lá.
Anh không dám nhận sau khi cám ơn bà cụ thì bà cụ nhìn anh một cái nhìn vừa thương mến vừa trách móc:
-”Thật là đẹp mặt nhỉ! Chúng tôi cứ ngỡ là các anh ra đây giải phóng ngoài này chứ ai đâu ngờ ra nông nỗi này”,  và cụ thở dài:
-”Âu thôi cũng là số Trời đã định.”
Anh nói rằng lúc đó, tuy anh là con người rất cứng rắn chưa hề nhỏ một giọt nước mắt dù đau khổ đến đâu trong suốt bốn năm qua, nhưng không hiểu sao câu nói ấy đã khơi dậy một nỗi đau sâu kín nhất trong lòng và bất chợt anh quì xuống xin lỗi cụ vì mình bất tài đã không giữ được nước.
Những giọt nước mắt anh cứ tuôn ra không thể cầm lại được nữa trên đôi gò má sạm nắng như cho vơi đi những u uẩn trong lòng bấy lâu nay, trong tiếng xào xạc của ngọn gió từ bờ sông thổi qua rặng cây bên đường trong khi ráng chiều đang ửng lên cho một ngày nữa lại sắp tàn trên con đê vắng bóng người.
Nhìn dáng cụ chậm rãi bước trên con đê quanh một giòng sông nhỏ là nhánh của sông Hồng về phía ngôi làng bên kia sông, anh thầm nghĩ bà cụ là ai hay một vị tiên vừa giáng xuống an ủi những tù nhân?
Tối hôm đó hai anh em tôi mắt đều đỏ hoe, điếu thuốc và chén nước trà sao nghe thật đắng trên môi và trong lòng một nỗi u hoài không sao ngủ được khi nhớ đến lời nói trách móc nhẹ nhàng nhưng thấm thía của bà cụ trên con đê chiều nay.
Không phải là các anh trong những  Biệt Kích nhẩy toán ra miền Bắc mà tôi đã được gập tất cả đều trông mong QLVNCH chúng ta ra Bắc giải phóng cho họ mà trong thâm tâm người dân cũng mong có ngày đó.
Nhưng than ôi đúng là Định Mệnh quá khắc nghiệt và số Trời đã định để chúng ta thành kẻ bại trận như lời bà cụ.
Câu chuyện thứ hai là con Ma dấu mặt.
Lý do là dạo này điện chạy cả đêm cho nên các anh và cả tay cán bộ Tổ Điện cũng phải thay nhau ngủ canh máy điện suốt đêm ngoài cái chòi bên con đê.
Tối nào cứ vào giấc khoảng một giờ sáng thì các anh thấy mặt mình lạnh toát hóa ra y như có ai lật cái chăn mền đang đắp.
Anh Tư là người dạn nhất nên đã quyết tâm tìm ra thủ phạm và đêm hôm qua anh Tư trực nằm đắp chăn nhưng cố gắng không ngủ dù là rất mệt mỏi thì quả thật qua nửa đêm anh thấy rõ ràng một bàn tay người con gái mặc đồ trắng lật tấm chăn xuống, anh vùng dậy thì chỉ thấy một bóng trắng mà khuôn mặt thật mờ ảo nhẹ nhàng lướt đi về phía con sông rồi biến mất.
Các anh hỏi tay cán bộ thì hắn cũng xác nhận rằng hắn ta cũng thấy đúng như vậy vì vùng này họ đặt tên cho nó là con Ma dấu mặt.
Có lẽ là một thiếu nữ nào đó ở làng bên đã chết oan tại con sông này và không siêu thoát được.
Ba anh trong tổ điện cũng là những người đã đóng góp nhiều vào sự thành công phải nói là vang dội của đội văn nghệ của trại và làm thay đổi hẳn 180 độ cách đối xử của trại đối với tù chính trị.
Số là năm đó trại quyết định thành lập một đội văn nghệ và giao trách nhiệm cho bên tù chính trị để thành lập đội.
Các anh em có năng khiếu lần lượt được chuyển vào đội này.
Lúc đó tôi vẫn còn bên đội gạch, là một đội lao động nặng nhất trong trại, một đội trừng giới mà bất cứ anh em nào bị kỷ luật thì đều bị đưa về đội này như một hình thức tiếp tục trừng phạt.
Mãi hơn một năm sau, vài người bạn có lẽ thương tình hay sao mà tìm cách kéo tôi về được đội văn nghệ và nhờ đó mà tôi được đi theo trong một chuyến lưu diễn tại cây số 60 – một kỷ niệm không bao giờ quên được trong đời.
Ba anh tổ điện cũng nằm trong nhân số của đội để lo cho phần âm thanh và ánh sáng và thành phần nhân tài cũng rất là đông đảo.
Linh hồn của đội lúc bấy giờ phải nói tới các nhạc sỹ ghi-ta như anh Cầm, trung úy – đội trưởng, anh Qúi biệt danh Quí Lùn – đại tá, soạn hòa âm, anh Sỹ – thiếu úy, violon là bác Định. Các ca sĩ như anh Bửu Uy kiêm về hòa âm và hát bè, Tuấn, Hùng, Công, V.T. An, Bình – đại uý pilot trực thăng.
Cải lương vọng cổ kép chánh là anh Diệp Tùng, anh Đẹp, Hùng đen, ông Hữu Vị trung tá; phụ trách designer là anh Linh – đại uý pilot với ria mép rất bảnh trai.và những anh đàn vọng cổ, v.v.
Bước đầu là vô cùng gay go vì trại họ muốn hát các bài của họ nhưng phía anh em đều phản đối.
Nhóm đầu não của đội mới ngồi lại bàn bạc trong đó cũng có các anh thợ điện và cuối cùng đã đưa ra được một chương trình dung hòa bao gồm vài bài hát tình cảm nổi tiếng thời bấy giờ của họ kèm theo những bài hát Anh, Tây Ban Nha, Pháp, kết hợp với các vũ điệu.
Sau nhiều lần thuyết phục, tay quản giáo văn ngh ệ nói trại chịu chương trình văn nghệ đầu tiên đó và cho tập dượt.
Chương trình này, ngoài ba tiết mục vọng cổ và tân cổ giao duyên, còn lồng trong những vũ điệu rất là lả lướt là các bài hát nhạc Pháp, Anh, Tây Ban Nha như “Un Homme Est Venu”, “Dans Le Soleil Et Dans Le Vent”, “Main Dans La Main”, “La Paloma”, “Beautiful Sunday”, v.v, và một vở hài kịch.
Bản nhạc Guantanamera, lời Tây Ban Nha, được dàn dựng thành một ca khúc mở màn với hợp ca hai bè và vũ khúc với hai anh Linh và Tân nhẩy múa theo điệu Habanera trong y phục Mễ Tây Cơ và mũ rộng vành sombrero.
Khi bắt tay vào mới thấy thật nhiều khó khăn trở ngại vì mọi thứ đều thiếu thốn từ quần áo, make up, đến nhạc cụ, nhưng mọi người đều quyết tâm và nói như họ là tạo “khí thế”.
Khi chương trình đầu tiên trình diễn trước trong trại thì ngoài cơ quan đều kéo rốc hết vào xem hết. Chương trình đầu tay đó đã thành công ngoài dự tính vì không ngờ là dân ngoài Bắc lại rất mê cải lương và các bài hát phương Tây cùng các vũ điệu mà chúng ta vẫn nhẩy trong Nam trước kia nên thành công bất ngờ ấy đã như là một chấn động vang xa ra đến tận Hà Nội.
Các buổi diễn sau đó thì khu gia binh và cả thân nhân họ từ Hà Nội cũng vào xem, tay quản giáo nói là họ mê nhất là vũ khúc mở màn bài Guantanamera và các bài hát Tây phương và vọng cổ.
Thời gian đó, hầu hết khu gia binh đều không còn che dấu tình cảm của họ dành cho đội nữa, mỗi khi gập chúng tôi đi lao động gần khu họ ở hay gần cơ quan thì các cán bộ nữ và các bà trong bếp chạy ra hỏi thăm tíu tít.
Họ mượn đâu ra hai cây đàn ghi ta và yêu cầu chúng tôi hát ngay tại một gốc cây cạnh hiện trường lao động bài “Beautiful Sunday” và nghe một cách say mê.
Thế rồi lúc đó khoảng năm một chín tám mốt, bất ngờ trại quyết định cho đội văn nghệ đi lưu diễn qua trại cây số 60 và cho đồng bào xem.
Đây cũng là một dấu mốc quan trọng cho sự chuyển hướng về thái độ của họ đối với tù chính trị.
Chúng tôi có ba ngày để chuẩn bị cho buổi lưu diễn và sau đó tất cả khoảng gần ba chục người lên ba chiếc xe vận tải hở mui cùng tất cả phông màn trang trí phụ tùng trực chỉ cây số 60.
Trại này lấy tên cây số 60 vì cách thị xã đúng 60 cây số.
Trước kia, một số anh em cấp Trung Tá đã bị giam giữ ở đây nhưng bây giờ chỉ còn toàn tù hình sự.
Ba chiếc xe chay bon bon trên con đường độc đạo về phía cây số 60, nhiều lúc chúng tôi phải thụp xuống vì những nhánh cây to bên đường có thể quét văng ra khỏi xe lúc nào không hay.
Một vài anh không để ý thì người mất nón lá người mất cái mũ.
Lần đầu tiên ra khỏi trại giam sau hơn sáu năm trời, chúng tôi thấy cái gì cũng lạ lẫm, nhất là những ngôi nhà lá vách đất trong những khu làng nghèo xơ xác với những con trâu già ì ạch như không kéo nổi cái cầy nữa bên người nông phu cũng luống tuổi. Có lẽ trai tráng thanh niên đều đã ra đồng hay lên núi lao động hết rồi.
Khi vào đến sân trại, chúng tôi được tiếp đón như là các người khách chứ không như tù nhân và được cho ở riêng một căn buồng giam.
Nhìn điều kiện vệ sinh rất thấp kém của trại này và tình trạng thường xuyên khan hiếm nước, chúng tôi đã hiêủ vì sao các anh Trung Tá bị giam ở đây truớc đó đã ngã bệnh rất nhiều đưa đến một số tử vong vì tiêu chẩy  và kiết lỵ.
Trại chỉ có một giếng nước và cứ đến mùa khô là nó cạn chỉ còn trơ đáy giếng đầy đá lởm chởm và để có nước nấu ăn, nhà bếp đã phải ngày ngày kéo các xe cải tiến với các thùng phuy to đi xa vài cây số ra các làng bên để xin nước chở về.
Các tù nhân phải tự túc về nước uống cho nên khi ra lao động phải tắm tại một nhánh sông nhỏ và đem ít nước về trại để dùng.
Nhưng nhánh sông ấy vào mùa Hè thì cũng cạn trơ cả lòng sông và chỉ còn ít nước cho nên nhiều lúc tù nhân phải vục xuống các vũng trâu nằm mà uống nước nên hầu hết đều bị bệnh đường ruột.
Buổi chiều khi kẻng tan giờ lao động, các tù hình sự lần lượt theo đội mà nhập trại, họ như những bộ xương còn biết đi và phấp phới bay trong bộ quần áo rộng thùng thình đi đầy sân trại để lãnh phần ăn chiều là mấy củ sắn khô. Một hình ảnh thật là ghê rợn của trại tù miền Bắc.
Nhìn họ, tôi nhớ đến chúng tôi một v ài năm trước cũng chẳng khá gì hơn và vẫn thắc mắc tại sao họ còn sống được trong điều kiện mất vệ sinh và thiếu ăn thiếu cả nước uống như vậy?
Chỉ có những tù phục vụ trong nhà bếp và trật tự viên là còn có da có thịt vì được trại ưu đãi cho phần ăn khá hơn. Khẩu phần ăn cho chúng tôi tương đối khá hơn một chút vì có thêm ít mỡ màng bồi dưỡng và khi đang ăn thì một số tù hình sự đến gần nhìn rất là thèm thuồng.
Anh em chúng tôi bèn nhường bớt phần ăn cho họ và lấy phần lương khô đem theo ra ăn một chút cho đỡ đói vì ai cũng mệt vì chịu sóc trên xe vận tải hai tiếng đồng hồ, bởi nhiều khúc con đường lởm chởm đá mà tài xế vẫn không giảm tốc độ có lẽ muốn đến cho đúng giờ quy định.
Buổi tối lúc giăng mùng đi ngủ chúng tôi mới thấy hãi hùng vì từ trong vách tường đất nứt nẻ hiện ra hàng đoàn rệp bò như xe tăng xuống dọc theo tường và vào đầy các chỗ nằm; và dù có tấn mùng kỹ cách nào thì nó cũng chui vào được để xin tí huyết.
Anh Phát nằm cạnh tôi, người Huế và rất là hiền lành thì niệm Phật và cười: “Thôi thì tối nay anh em mình cũng hoan hỉ cho chúng một bữa ăn no vậy thôi, có lẽ chúng đói cũng lâu rồi vì buồng naỳ có vẻ như bỏ trống một thời gian rồi, nhện giăng đầy bốn góc.”
Báo hại mỗi buổi sáng thức dậy chúng tôi phải lôi hết mùng màn ra sân nắng bắt từng chú rệp một cả hai tiếng đồng hồ mới xong để chuẩn bị cho một màn chiến đấu nữa với xe tăng rệp vào ban đêm.
Để quảng cáo cho dân làng chung quanh và những nơi xa xôi bên kia rặng núi về chương trình văn nghệ tân cổ giao duyên này, một điều lý thú là trại cho một số anh em chúng tôi mặc quần áo dân sự đi theo trên hai chiếc xe díp có vẽ bảng quảng cáo đầy mầu sắc gắn hai bên xe là…”Đoàn Cải Lương Sàigòn 7″ sẽ lưu diễn hai đêm trong và ngoài trại để đồng bào đến xem.
Anh em chúng tôi thực sư ngạc nhiên vì không ngờ họ bốc phét ngang nhiên như vậy nhưng chỉ cười không nói gì vì thấy mấy tay cán bộ trại có vẻ thực sự thích thú vì đã từ lâu họ cũng không được xem một tuồng tích cải lương nào.
Sau buổi diễn thành công trong trại cho tù hình sự xem, anh trật tự chính của tù hình sự đến thăm chúng tôi bầy tỏ lòng ngưỡng mộ và không ngờ ít lâu sau anh ta được chuyển về cùng trại với tụi tôi và trở thành một tay đắc lực đã ngầm giúp nhiều lần mua bán các thực phẩm cần thiết cho anh em chúng tôi một thời gian dài.
Tên anh ta gọi là anh Binh, lúc đầu tôi tưởng là tên cha mẹ đặt cho, sau hỏi ra mới biết đó là biệt hiệu vì dáng anh cao lớn và tên tù nào lạng quạng là bị “binh” ngay thôi cho nên đám hình sự rất là sợ anh ta. Không hiểu sao, đặc biệt với tôi và mấy anh Tổ Điện, anh tỏ ra nhiều cảm tình và nhất định mời vài anh em qua buồng anh để thết đãi vài chung rượu trắng.
Ở một nơi thâm sơn cùng cốc này nước còn không đủ uống mà đem rượu ra mời thì phải là khách quí lắm cho nên tôi đưa mắt nhìn anh Tư và anh gật đầu.
Khi tôi và anh Tư qua thăm họ xã giao thì thấy chỗ anh nằm đã được quét dọn sạch sẽ, anh trải chiếu mới mời ngồi rồi rót ba chung rượu chúc mừng sự thành công.
Anh nói rằng anh rất cảm phục những người tù chính trị từ khi các anh Trung Tá còn ở đây vì tác phong, nhân cách và lòng thương người của các tù chính trị đối với phía hình sự.
Anh Binh nói rằng buổi diễn tối mai cho dân chúng sẽ còn thành công hơn nữa vì tâm lý khán giả bây giờ thích xem và nghe nhạc tây phương, cổ nhạc và các bài hát về quê hương Hà Sơn Bình như chúng tôi trình diễn hơn là chương trình nặng về tuyên truyền của các đoàn văn công trung ương.
Từ đó tôi hiểu được rằng không kể những người tù, mà lòng người dân ngoài Bắc cũng đã quá chán ngán những bài hát ca tụng chiến tranh sắt máu nhưng không dám công khai chống lại thôi.
Sáng hôm sau, chúng tôi có cơ hội hiếm có và là lần đầu tiên trong hơn năm năm trong tù là tản bộ ra ngôi làng gần bên để xem dân cho biết sự tình. Hai tay cán binh đưa chúng tôi đến một quán nước thì hẹn sau hai tiếng sẽ quay lại đón rồi biến mất.
Ngôi làng quê này sao giống y như trong các sách của Tự Lực Văn Đoàn ngày xưa mà các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng hay Thạch Lam đã mô tả.
Cũng những mái tranh nghèo, những con đường đất quanh co bên vài thửa ruộng cằn cỗi, lũy tre làng một mầu xanh ngát bao quanh,  ít hàng quán mà đa số chỉ là quán bán nước chè xanh, trà móc câu, vài nải chuối, ít kẹo lạc, thuốc lào, vậy thôi, và người dân làng thì chất phác hiền lành suốt đời chỉ quanh quẩn trong thôn xóm với ruộng đồng nương khoai; nhiều cụ già trong làng cũng chưa hề biết đến thành phố thị xã là gì.
Chúng tôi xin một bình trà và hai chị em đưa ra một giỏ ấm trong đó có một bình trà bằng sứ còn nóng và rót ra các cái chung nhỏ xíu nhưng uống thì rất là thơm ngon.
Hai c ô b é h àng n ư ớc kho ảng ch ừng m ư ời t ám đ ôi m ư ơi v à da tr ắng ch ứ không rám nắng như các thôn nữ khác và ăn nói thì lại dịu dàng.
Khi biết chúng tôi trong đoàn văn nghệ thì cô em gái yêu cầu hát một bài nhạc xưa và khi anh Hùng đen vừa ca tân nhạc rồi cổ nhạc chay, vì không có đàn, thì cô em nắm trong tay tờ hóa đơn gì đó và nghe say sưa đến vò nát tờ giấy lúc nào không hay.
Khi trả tiền tôi loay hoay mãi đếm không xong vì chưa quen với tiền hào tiền xu của họ, hai cô em nhất định không lấy tiền bình trà nhưng chúng tôi cứ bỏ tiền lại trên bàn rồi nhắn họ vào xem văn nghệ đêm hôm sau rồi rút lui.
Hóa ra chị em cô hàng nước là một trong số những gia đình người Hà Nội ngày xưa đã bị đuổi ra khỏi thành phố và tống lên vùng hoang vu này khi Việt Minh nắm chính quyền sau tháng bẩy năm 1954.
Một số không nhỏ những người gốc Hà Nội này đã kiệt sức chết vì khí hậu của nơi rừng thiêng nước độc và vì thiếu thuốc men và thực phẩm.
Kỷ niệm khó quên là buổi diễn tối hôm sau ngoài trại dành cho đồng bào.
Từ trưa chúng tôi đã chuẩn bị sân khấu, căng phông màn cho các tuồng tích rất là chu đáo vì nghe nói ở đây hàng chục năm cũng chưa có đoàn văn nghệ nào đến lưu diễn nên anh em chúng tôi cố gắng để lại cho dân làng một kỷ niệm tốt đẹp về những người tù chính trị.
Trại dành cho chúng tôi có lẽ là một đặc ân vì mỗi người được một thùng nước giếng để tắm rửa chuẩn bị cho màn biểu diễn buổi tối.
Dự trù 7 giờ tối khai mạc chương trình nhưng khi 6 giờ hơn rồi tôi nhìn xuống bãi cỏ rộng mênh mông dành cho khán giả chỉ thấy lèo tèo vài đám con nít và người già và nghĩ rằng buổi diễn chắc phải hủy bỏ.
Thế nhưng chỉ một lát sau khi trời sập tối thì tôi thật ngạc nhiên khi thấy một quang cảnh kỳ lạ chưa nhìn thấy bao giờ và không tin vào mắt mình nữa, là từ phía bên kia rặng núi, đồng bào Kinh và Thượng đi nối đuôi nhau như rồng rắn với những bó đuốc sáng rực trên những con đường mòn chạy quanh để vượt dẫy núi mà hướng về phía trại.
Chỉ một giờ sau thì bãi cỏ đã đầy kín những người là người không còn chỗ trống. Một số đồng bào trong đó có hai chị em cô hàng nước hôm qua cũng có mặt và còn đem lên tặng chúng tôi n ào l à chuối, đu đủ mà họ trồng trong vườn.
Khi mở màn thì khán giả mới biết đây là đoàn văn nghệ của tù chính trị nhưng họ vẫn vỗ tay và ở xem cho đến tiết mục cuối cùng sau ba tiếng rưỡi đồng hồ.
Tiếng vỗ tay của khán giả vang dội cả một khu vực trại giam khi hạ màn và nhiều người còn quyến luyến chưa chịu về.
Có người nói họ đi bộ hơn mười cây số từ bên kia rặng núi qua để xem văn nghệ, có người nói là họ đạp xe đạp suốt ngày lúc tờ mờ sáng từ nhà để đến xem cho kịp.
Trước khi tản ra về vì màn đêm đã buông xuống tối sẫm cả bầu trời, khán giả đều vẫy tay chào các người nghệ sỹ bất đắc dĩ là chúng tôi và với những thái độ rát chân thành họ chúc cho chúng tôi mau được trở về đoàn tụ với gia đình thật là cảm động.
Ngày hôm sau là ngày cuối cùng tại trại cây số 60 và điều bất ngờ là từ sáng tôi và một số bạn được đánh thức dậy để đi thăm chùa Hương Tích vì chỉ cách trại này có ba ngọn núi thôi.
Quả thật tôi cứ ngỡ như trong mơ có một dịp may như vậy, nhưng phải trèo qua ba ngọn núi mới đến chùa Hương được.
Anh em chúng tôi khoảng bẩy người ráng lắm cũng chỉ vượt được hai ngọn núi vì phải có một tay cán binh leo trước dẫn đường, leo từng nấc một, có lúc dễ nhưng nhiều khi chênh vênh tốn thời gian mới leo qua được một khúc cho nên trước khi đến qủa núi thứ ba thì hết giờ và đành phải tiếc nuối quay về vì xe vận tải đang chờ.
Lối đi mòn này là của dân điạ phương thường vượt phía sườn núi bên này để đến chùa Huơng chứ không phải là con đường chính thức vào động Hương Tích.
Chỉ có toán anh em đi lên núi từ năm giờ sáng thì đã đến được Chùa Hương và mua về được một số kỷ vật.
Tôi cứ tiếc mãi là đã vượt qua hai phần đường rồi mà vô duyên nên không kịp đến thăm được động Hương Tích, không được đảnh lễ Phật Bà nơi có ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng nhất miền Bắc này.
Vài năm sau thì tất cả các trại giam tù chính trị đều tập trung về trại Ba Sao – Nam Hà rồi một đợt lớn di chuyển tù nhân vào Nam năm một chín tám ba trong đó có anh cả của tôi và ba anh trong tổ điện.
Tôi mừng cho anh tôi và các bạn được xuôi trên chuyến tầu vào Nam, miền quê hương nắng ấm, gần gia đình hơn nhưng họ cũng đem bao nhiêu là tình cảm và kỷ niệm trong tôi theo với chuyến tầu.
Một năm sau nữa là năm một chín tám bốn, tôi được tin anh tôi và một số sĩ quan cấp tá đã được thả ở trong Nam.
Sau đợt di chuyển tù vào Nam, thì đội văn nghệ giải tán và chúng tôi những người còn lại vẫn tiếp tục con đường “cải tạo” qua lao động.
Mỗi khi nghĩ lại những quãng đường trong cuộc đời mình đã đi qua, tôi nghiệm thấy rằng hình như con người ta có số mạng.
Trên những chặng đường mình đi, hình như Định Mệnh đã an bài để ta gập những người bạn nào đó trong giai đoạn khó khăn ấy ngõ hầu giúp cho ta thêm kiến thức, thêm phong cách, thêm hiểu đời hơn, sức chịu đựng bền bỉ hơn, rồi sau đó họ tự nhiên biến mất y như khi họ bất ngờ xuất hiện.
Tôi muốn nói đến những người bạn thân trong tù mà tôi đã sống chung một thời gian chia sẻ những vui buồn, trong đó có ba anh thợ điện mà tôi rất mến phục.
Phần VII: Thước Đo Lòng Người
Năm đó đột nhiên Trời nắng hạn, cây cỏ đều ủ rũ vì thiếu nước, trâu bò thì phì phò mệt nhọc trong đám ruộng thưa và cái nóng như gia tăng theo với cái khô khan trong không khí làm con người như muốn nghẹt thở, nhất là trong các buồng giam chật hẹp và chật ních người.

Tất cả đều tìm một bóng mát của một tàng cây rợp lá hay chút mát lạnh của ao nước bờ sông hay nhớ lại những ngày mưa bão. Nhiều người thì nghĩ sắp có thiên tai hay dịch bệnh vì chưa bao giờ mà nóng đến như vậy.

Thế rồi sau cơn hạn hán nắng cháy đó bỗng nhiên Trời đổ cơn mưa.

Nghe nói mưa rất lớn từ trên thượng nguồn và đổ về miền Trung Du và làm mực nước sông Hồng dâng cao tới mức báo động đỏ.

Trại giam nằm cạnh một con sông nhánh của sông Hồng và sau một tuần nước trên nguồn đổ về thì con đê bị vỡ ra một mảng và nước tràn vào làng xóm hai ven bờ sông và ngập luôn các buồng giam. Muốn đi đâu thì cũng phải lội bì bõm trong nước đục ngầu đầy rác rưởi tới đầu gối.

Thời Pháp thuộc hệ thống đê điều còn được sửa chữa và bảo quản thường xuyên nhưng từ khi Việt Minh cướp chính quyền thì các con đê bị xuống cấp rất nhanh và mỗi mùa mưa bão là dân chúng lại lo sợ con đê sẽ vỡ.

Người dân làng thì vốn đã nghèo xác xơ lo chưa xong hai bữa ăn hàng ngày, nhiều gia đình không đủ tiền đóng tiền học phí cho con đi học mà con đê không giữ được làn nước lũ tràn vào làng thì không những sinh mạng con người bị đe dọa mà trâu bò gia súc và ruộng nương sẽ không còn.

Trở lại với con đê đang bị nước lũ tràn qua và có nguy cơ cả vùng chung quanh sẽ bị ngập lụt trong mưa lũ thì bất ngờ một buổi sáng vừa thức dậy, tôi nghe tiếng kẻng trong trại đánh đồn dập và bên ngoài thì phèng la inh ỏi chưa biết chuyện gì thì ba tay cán bộ trại bước vào và ra lệnh cho chúng tôi đi hộ đê.

Từ bé đến giờ, tôi chỉ ở thành phố nên chẳng hay hộ đê là làm sao, bây giờ mới hiểu cách họ hộ đê là làm như thế nào ở một nước giật giải quán quân về nghèo và lạc hậu nhất thế giới.

Chúng tôi được dẫn ra tới bờ sông thì thấy mực nước đã mấp mé tràn qua con đê và khoảng cứ sáu người xuống một chiếc thuyền chèo ra ngoài xa bờ chỗ nông một chút rồi nhẩy xuống dùng mai và xẻng xúc từng cục đất lớn một đổ lên thuyền. Nước thì ngập lên đến ngực mà mỗi lần xúc được một  tảng đất lớn thì mừng lắm nhưng khi kéo nó lên trên mặt nước thì đất tan rã dần chỉ còn vài nắm tay nên họ yêu cầu phải ngụp lặn xuống mà xúc đất lên cho nhiều. Chúng tôi thay phiên nhau lặn xuống xúc đất lên mãi mới được gần lưng chiếc thuyền rồi chèo vào bờ đổ lên đắp vào con đê. Tôi sực nhớ tới ngày xưa thời Bắc thuộc, ông cha chúng ta cũng phải xuống biển mò ngọc trai san hô cho quân Tầu đang đô hộ thì mới thấy thương tổ tiên ông cha mình ngày trước. .

Nhìn thành quả của hai tiếng đồng hồ mà chỉ như muối bỏ biển, ai cũng ngao ngán, một phần vì ngâm nước quá lâu nên ai cũng bắt đầu thấm lạnh và run lập cập. Suốt một ngày quần thảo với mấy cục đất ngụp lên lặn xuống mà chỉ được có bốn chuyến đổ đất lên đắp con đê cũng chẳng làm cho nó chắc hơn được chút nào nhưng mà công tù có mất gì đâu.

Khi về đến buồng thì ai nấy đều mệt rã người ra và lạnh cóng.

May mắn năm đó nước lũ chỉ tràn vào có một lần, nếu nước sông Hồng dâng cao lên nữa làm vỡ đê thì không biết chuyện gì sẽ xẩy ra.

Trước đó, trong những ngày đi lao động bên ngoài trại dọc theo con đê, chúng tôi thường thấy mấy em bé trai gái đi chân đất, áo quần xốc xếch cắp sách đi ngang qua trên đường đến trường.

Một hôm khi mấy anh đại tá tù chính trị đang cuốc đất thì thấy  một em bé gái khoảng độ bẩy tám tuổi đi qua khu vực lao động của đội vừa đi vừa khóc. Mấy anh mới hỏi thăm thì được biết là em vừa bị đuổi học vì thiếu tiền đóng học phí cho trường.

Thấy vậy, mấy anh bèn bảo cháu là ngày mai cũng giờ này ra đây sẽ có tiền đóng học phí.

Tối hôm đó về buồng, mấy anh đại tá quyên góp được một số tiền và quần áo và sáng ngày hôm sau đem ra cho cả cô bé và Bố mẹ cô ta nữa giỏ quần áo, một số tiền và nhờ đó mà cô bé ấy đã được quay trở lại trường.

Ít hôm sau cô bé học sinh đó đem ra nào là đủ thứ trái cây trồng trong nhà và cả chục trứng gà nói là Bố Mẹ cháu biếu mấy bác mấy chú nhưng không thể ra gập để cám ơn được, và gia đình cô bé ấy đã lan truyền ra cả ngôi làng về tấm lòng nhân ái cuả mấy người tù chính trị.

Mấy anh từ chối và nói rằng thấycháu được đi học lại như những đứa trẻ khác là vui rồi và bảo Bố Mẹ các em đừng bận tâm.

Từ đó đội các anh còn nhận cô bé đó làm con nuôi nữa và thấy cô bé đã ăn mặc tươm tất hơn và luôn nở một nụ cười thật tươi mỗi khi đi học qua khu vực lao động của các Bố nuôi. Các anh vẫn tiếp tục trợ giúp gia đình bé gái ấy và vài gia đình nữa cho đến khi vài năm sau chuyển trại.

Trên một tờ báo Nhân Dân xuất bản tại Hà Nội, tôi có đọc một bài viết của Nguyễn Khắc Viện, giáo sư đại học bấy giờ về “Giấc Mơ Năm 2000″ và rất là ngạc nhiên bởi vì sau 45 năm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người sống tại Hà Nội vẫn còn những ước mơ rất là giản dị mà không bao giờ thực hiện được.

Ông Nguyễn Khắc Viện viết lên một giấc mơ về một Hà Nội đến năm 2000 thì sẽ khang trang sạch sẽ và sẽ không còn bị ngập lụt mỗi khi một cơn mưa lớn đổ xuống thành phố. Tôi lúc đó cứ thắc mắc mãi là sau khi cướp được chính quyền năm 1949 rồi thì Việt Minh họ đã làm được những gì cho nhân dân khi mà 45 năm sau người dân tại ngay thủ đô vẫn còn mơ ước một Hà Nội không bị ngập lụt sau mỗi cơn mưa? Người dân bên ngoài còn nhiều khắc khoải như vậy thì tù nhân trong trại tập trung sẽ sống còn được hay không?

Chế độ “tập trung cải tạo” (TTCT) là bắt chước y khuôn các trại tập trung lao tù của Nga Sô và một phần được “tô điểm” thêm từ Trung Cộng cho nên khi nó du nhập vào miền Bắc sau năm 1954 thì đã gieo kinh hoàng cho dân chúng ngoài Bắc để cho người dân phải sợ hãi đến tê liệt hết ý chí không còn dám chống đối Nhà Nước Cộng Sản nữa.

Sau khi xâm chiếm miền Nam tháng Tư 1975 thì kẻ chiến thắng đã dùng ngay con bài này để vừa trả thù vừa trừ khử những sĩ quan và viên chức chế độ VNCH cũ trong các trại TTCT này, và là đòn răn đe cho những ai còn mang lý tưởng chống đối lại chế độ vô sản chuyên chính của họ.

Đòn đầu tiên quật ngã ý chí của người tù là giam giữ không có bản án nghĩa là sau ba năm bị giam trong tù thì tự động chồng lên ba năm nữa không cần xét xử hay công bố, để khủng bố tinh thần những người tù mà họ gọi một cách mỵ dân và lường gạt dư luận là “cải tạo viên”.

Đòn thứ hai là cưỡng bức lao động khổ sai nhưng chỉ cho ăn thật thiếu thốn cả về chất lượng và số lượng để những người tù này phải đói khát, giá lạnh, khổ cực triền miên hàng ngày, hàng tháng, hằng năm mà … không chết được.

Họ phải chịu cái giá lạnh vì một năm Nhà Nước chỉ cung cấp mỗi người hai bộ quần áo tù và một cái chăn mền dù là họ đang bị giam tại những vùng nhiệt độ ban đêm có thể xuống tới zero độ C.

Nhưng nếu họ không lao động cật lực để qua lao động cải tạo bản thân họ thì nhà kỷ luật, thùng Connex, nhà biệt giam sẵn sàng mở cửa tiếp đón.

Lao động thế nào là tốt hay xấu là tùy theo sự phán xét của tay quản giáo và của trại giam và người tù không được có ý kiến.

Trên thế giới từ cổ chí kim có lẽ chưa có một quốc gia nào, một đất nước nào bắt người tù phải đóng tiền cơm để vào tù như chế độ Cộng Sản sau khi chiếm đóng miền Nam năm 1975.

Rồi sau đó loan báo là Nhà Nước sẽ nuôi các “cải tạo viên” nhưng khi giam giữ họ một thời gian thì ra lệnh cho tất cả trại giam đều phải tự túc lương thực có nghĩa là những người tù phải lao động cật lực để tạo ra của cải vật chất làm giầu cho trại và tự nuôi lấy mình hay nói một cách khác Nhà Nước giam giữ tù mà không hề tốn một xu nào cho ngân quỹ.

Thực tế, nhiều trại không những tự túc được về lương thực mà còn làm ra nhiều tiền nữa để trại đem nộp lên cấp trên của họ tuy nhiên khẩu phần ăn của tù nhân thì vẫn như cũ.

Mức quy định cho mỗi tù nhân còn sức khỏe đi lao động một tháng là 15 ký chất bột còn người nằm bệnh xá hay bệnh tại buồng chỉ còn 13 ký rưỡi.

Chất bột có nghĩa là nếu không có gạo thì thay bằng bo bo, sắn, khoai lang, khoai tây, bột mì quy ra bột. Nhiều trại cả năm chỉ vào những ngày Tết hay lễ lớn thì mới thấy nhà bếp phát cơm và ít thịt heo hay chỉ chút canh có mỡ màng, còn thì quanh năm suốt tháng chỉ có khoai sắn và bo bo.

Nhiều khi khoai sùng và sắn mốc xanh trong kho cũng được nhà bếp nấu cho ăn, chính vì chế độ ăn uống thiếu thốn và suy dinh dưỡng và thiếu vệ sinh như vậy đã làm cho người tù dần dần kiệt sức hay ngã bệnh.

Có anh đã cho tôi xem thư gia đình trong đó viết vợ và bẩy đứa con của anh hiện nay không biết sẽ xoay sở ra sao vì nhà đã hết gạo. Tôi nhìn đôi mắt đỏ hoe của anh mà trong lòng như bị xát muối. Người tù vốn đã cùng cực rồi còn phải chịu thêm nỗi đau cho vợ con ở nhà, không biết Ông Trời ở nơi đâu?

Hình như sau khi quê hương mất vào tay Cộng Sản thì toàn thể dân chúng miền Nam đều hứng chịu nỗi khổ đau phong ba bão táp, nhưng có lẽ những gì thiệt thòi nhất vẫn dành cho những người tù như trong lá thư của Phượng, người con gái Sàigòn sau này đã dành cho tôi bao tình cảm khi đến thăm tôi tại trại Hàm Tân.

Trong tình hình khó khăn như vậy nhưng có nhiều anh đã rất can trường và oai hùng đã thẳng thắn từ chối sự bảo lãnh của thân nhân ở phía bên kia và chấp nhận sự lưu đầy và lao động, nhưng cũng có nhiều người đã vượt quá sức chịu đựng của họ và trở nên lãng trí hay mất trí luôn.

Đại tá Luân, chỉ huy trưởng của đơn vị 101 có kể cho tôi nghe rằng Ba của anh đến trại thăm và ngỏ ý sẽ bảo lãnh cho anh sớm được thả.

Anh đã qùi xuống xá ông ba cái để trả ơn công sinh thành ngay tại nhà thăm nuôi nhưng nói rằng mỗi người có một lý tưởng khác nhau. Lý tưởng Tự Do của người Quốc Gia trong anh không bao giờ thay đổi, anh chào từ biệt Ba anh và thanh thản bước vào trại.

Anh Bửu Uy, một bạn thân của tôi cũng có người cha đi tập kết ra Bắc và vào thăm anh để tiến hành thủ tục bảo lãnh nhưng anh cũng thẳng thắn từ chối. Anh cũng là một trong hai mươi người cuối cùng bước chân ra khỏi trại giam Hàm Tân năm 1992 sau mười bẩy năm tù.

Quả thật là như trong Kinh Dịch nói “Cùng thì tất Biến”, trong những lúc đói khổ thiếu thốn như vậy thì xui khiến cho chính bà vợ của tay trưởng trại lại là người cung cấp thức ăn tươi cho tù nhân chúng tôi mới là điều nghịch lý.

Trại nơi tôi ở có bà vợ ông trưởng trại rất là độc đáo. Phải nói là bà ta có nhiều cái độc đáo thì mới đúng.

Trong khi chồng bà là Thiếu Tá Dũng luôn tỏ ra nguyên tắc thì bà ngược lại chỉ nghĩ rất thực tế là buôn bán, móc ngoặc làm giầu qua việc bán hàng cho tù nhân, đặc biệt là tù chính trị.

Bà ta là người có đầu óc phóng khoáng, phi chính trị, cho nên thường vẫn nói một cách tỉnh bơ với anh em chúng tôi là: “Các anh là tù quốc tế mà, việc gì mà phải sợ chúng nó, cứ mua bán ăn uống vào cho khoẻ”. Chúng nó đây là đám cán bộ trực trại thỉnh thoảng lại tịch thu các món hàng anh em chúng tôi mua của bà ta khi gánh hàng qua cổng trại.

Phải công nhận rằng thời gian đó nhờ vào các thức ăn tươi rau trái mua được từ nguồn cung cấp là bà ta, cho nên sức khoẻ anh em tôi cũng đỡ phần nào.

Tuy giầu có như vậy, nhờ buôn bán với tù nhân trong trại, nhưng đi đâu cũng là chân đất. Hôm nào chúng tôi đang lao động mà thấy bà ta xỏ vào đôi guốc là có đại sự hoặc là lên tỉnh hay lên Hà Nội đi cất hàng.

Có hôm chúng tôi không nhịn được cười khi bà ta khoe rằng:” Các anh không biết chứ ngày xưa tôi là hoa khôi trong làng nên ông ấy mới mê mà lấy đó!” trong khi bà ta thì gầy đét như que củi và bộ răng như một hàng hiên mái nhà che mưa mà lúc nào cũng cứ tự khen mình là hoa khôi ngày xưa.

Ngoài ra, rất nhiều anh có hoa tay nên đã biến những cái sừng trâu thành bao nhiêu là cái lược sừng khắc tên cho vợ con ở nhà, bao nhiêu là tượng Phật, tượng Chúa rất đẹp và quan trọng nhất là cái lò nấu bằng dầu hôi chế tạo từ những lon sữa bò hay hộp cá mòi. Chính nhờ cái lò dâù hôi này mà mùa Đông chúng tôi có thể nấu ít nước trà nóng hay ít canh rau để giữ ấm được thân nhiệt. Các anh có đầu óc sáng chế và tài hoa này phải kể anh Quát, anh Quang Sừng, v.v.

Nội quy do trại đặt ra thì nghiêm cấm đủ mọi thứ vì vi phạm là kỷ luật, và mục đích của nó là đóng khung người tù trong điều kiện sống khắc khổ nhất để họ chết dần chết mòn.

Bởi vậy, tuân theo nội quy cứng ngắc đó không khác gì cho cổ vào dây thòng lọng bởi vì nó chỉ áp dụng cho tù nhân mà thôi còn cán bộ họ muốn làm gì thì làm cũng giống y như luật pháp bên ngoài xã hội vậy.

Trại giam cũng như một xã hội thu nhỏ lại, tù nhân là dân chúng bên ngoài đã bị tịch thu hết tài sản còn bị tròng vào cổ bao nhiêu tầng áp bức trong khi cấp lãnh đạo Nhà Nước thì làm giầu trên xương máu nhân dân nhưng lúc nào thì cũng hô hào nhân dân làm chủ, cũng phô trương lừa bịp với thế giới rằng chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp hơn chế độ tư bản ngàn lần.

PHẦN VIII: Tấm Lòng Người Vợ
Phụ nữ Á Đông, đặc biệt là người phụ nữ Việt Nam nói chung, so với những phụ nữ khác tại Á Châu, Âu châu, hay trên thế giới thì không những đẹp hơn về vóc dáng mảnh mai, khuôn mặt thanh tú, mà còn hơn hẳn về phương diện đức hạnh tức là cái đẹp ẩn tàng bên trong và cũng vựơt xa hơn về tình thương yêu vô bến bờ dành cho chồng con mình.
Cái đẹp này đã không mất đi mà còn thể hiện đậm nét hơn và tô đẹp hơn hình ảnh của người phụ nữ trong vai trò người vợ dù bao nhiêu cuộc chiến điêu tàn và thảm khốc đã diễn ra trên quê hương chúng ta.
Sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản dưới chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì xã hội đã bị đảo lộn, trật tự không còn, căn bản đạo đức bị những người Cộng Sản làm băng hoại và phẩm giá con người, nhất là người phụ nữ, đang bị hủy diệt.
Trong khi chồng con bị giam giữ trong các trại tù mọc lên khắp nước thì một lần nữa, người phụ nữ, người vợ trong gia đình đã phải gánh vác trách nhiệm nặng nề là nuôi con cái và nuôi cả người chồng còn trong vòng tù tội và đọa đầy.
Các chị đã phải hứng chịu bao phũ phàng và kỳ thị mà kẻ chiến thắng đã phủ lên gia đình họ như là một hình thức trừng phạt.
Con cái thì không được tiếp tục con đường học vấn lên đại học dù là các cháu học rất giỏi và khi đi tìm việc làm thì bị đẩy ra vì lý lịch của người cha, nhưng các chị vẫn vững bước trên con đường mình đi để kiếm cách mưu sinh nuôi con cái trong lúc người chồng đã ra đi mà không biết ngày nào có thể trở lại.
Đa số các chị trước năm 1975 đều là nội trợ, chân yếu tay mềm sống vào đồng lương ba cọc ba đồng của chồng, nay phải đương đầu với bao khó khăn trong cuộc sống đảo điên của chế độ XHCN và còn phải chắt chiu dành dụm từng đồng một để thăm nuôi và tiếp tế cho chồng mình trong tù. Qủa là một cơn ác mộng dài.
Người chồng trong tù đã phải chịu đựng những sự trả thù tàn bạo của kẻ chiến thắng trên thân hình còm cõi của họ, nhưng người vợ ở nhà cũng không được yên thân với bao nhiêu là hạch sách nhiễu nhương bởi phường khóm, bị đuổi nhà và đầy đi vùng kinh tế mới, bị đánh tư sản, bị công an địa phương rình rập ngày đêm để tìm cách gây khó khăn và hãm hại.
Thế rồi khi được thư của người chồng báo tin là trại giam bắt đầu cho thăm nuôi thì người vợ vừa mừng vừa lo.
Mừng vì sau bốn năm trường bặt tin, bây giờ sẽ có cơ hội được gập mặt người chồng yêu thương nhưng lại lo lắng vì tìm đâu ra một số tiền lớn để mua vé xe lửa và chi phí trong chuyến đi ba ngày trời theo con tầu Thống Nhất ra tận ngoài Bắc mà thăm nuôi ? Chưa kể những trở ngại mà phường khóm và công an địa phương cố tình gây ra về giấy tờ thủ tục rườm rà để cản trở việc thăm nom đó với mục đích làm tiền một cách trắng trợn.
Chị Lãm là một trong những người vợ đang trong tâm trạng ấy.
Bốn năm qua, chị sống trong tình trạng khắc khoải lo âu vì không biết họ giam giữ chồng mình ở đâu và anh ấy còn sống hay đã chết?
Bây giờ được thư của anh Lãm thì chị bàng hoàng cả người vì không ngờ họ đã đầy ải anh ra tận ngoài Bắc trong khi ra đi thì anh có đem theo một cái áo ấm nào đâu?
Rồi không biết làm sao anh chịu nổi cái lạnh khủng khiếp của mùa Đông băng giá ngoài đó trong tình trạng thiếu ăn thiếu mặc?
Cầm lá thư của chồng trong tay mà hai hàng nước mắt thương chồng của chị lăn dài trên hai gò má xanh xao và nhỏ xuống thấm ướt cả lá thư.
Hai đứa con mới hơn mười tuổi nhìn chị hỏi có thư của Ba hả Mẹ làm chị lại càng đau xót, chị ôm hai đứa con và cả ba mẹ con đều ôm nhau khóc cho vơi đi bao nỗi tủi nhục từ ngày mất nước và cho vơi đi bao niềm thương nhớ chất chứa bấy lâu trong lòng.
Chị đâu có thể nào kể cho hai con nghe vì chúng còn nhỏ quá cũng không hiểu được rằng ngày ba nó ra đi để bước chân vào con đường tù đầy trong trại tập trung “cải tạo”, thì ba nó đã mang theo cả bao nhiêu thương nhớ và cả nửa phần hồn của mẹ rồi. Thời gian sau, mẹ trở nên xanh xao qua bao nhiêu cuộc biển dâu của cái xã hội mới này, nhưng một phần cũng vì trằn trọc hằng đêm thương cho người chồng hiền hậu không biết có sống nổi hay không trong cái hoả ngục trần gian ấy.
Thế rồi thời gian cứ lặng lẽ trôi và công việc mỗi ngày của chị là phải đi giao hàng những đồ nan tre rổ rá thúng mủng cồng kềnh được máng vào và cột trên chiếc xe đạp đã mòn cả đôi lốp để kiếm từng đồng nuôi hai đứa con tại Sàigòn.
Nhiều khi các hàng tiểu thủ công nghệ bằng nan tre này hầu như muốn che khuất luôn cả con đường trước mặt và che mất luôn cả con người của chị, nhưng chị vẫn kiên nhẫn leo lên chiếc xe đạp cũ kỹ và nắm vững tay lái để giao từng chuyến hàng, từng chuyến hàng một để qua ngày đoạn tháng và nhất định không đầu hàng số phận nghiệt ngã đã phủ xuống gia đình của chị cũng như của hàng trăm ngàn gia đình viên chức sỹ quan chế độ cũ sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản tháng Tư năm 1975.
Anh Hoàng Lãm là một đại úy trong QLVNCH và được biệt phái sang Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo thuộc Phủ Tổng Thống, cho nên anh cũng như các anh em tù nhân chính trị khác trong ngành tình báo, an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt, đều bị cho vào danh sách các thành phần nguy hiểm cho chế độ và bị tập trung hết đưa ra Bắc để qua con đường lao động mà “cải tạo bản thân để trở thành người công dân tốt”.
Bốn năm tập trung lao động trong một thứ xã hội phát triển ngược chiều, đưa con người ta trở lại thời kỳ sơ khai đồ đá như chế độ Cộng Sản tại miền Bắc đã làm anh kiệt sức nhưng tinh thần anh thì vẫn vững vàng.
Khi đặt bút viết lá thư đầu tiên sau bốn năm xa cách về cho người vợ yêu dấu, anh cũng trong tâm trạng vừa mừng vừa lo và không khỏi đắn đo vì anh biết bên ngoài người dân trong đó có vợ anh cũng đang chật vật gian khổ từng ngày để kiếm sống và đề sinh tồn trong một cái xã hội mà nó cũng chỉ là một nhà tù rộng lớn hơn mà thôi.
Chị Lãm cũng chỉ là một trong hàng trăm ngàn người vợ của tù “cải tạo”, những người vợ chịu đựng bền bỉ bao đắng cay vùi dập sau khi Cộng Sản  xâm chiếm miền Nam, nhưng sao tôi thấy ở chị một cái gì rất là đặc biệt.
Dù sống trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn và vật lộn với đời sống hàng ngày nhưng lúc nào chị cũng tỏ ra lạc quan, ít nhất cũng là trong thời gian lúc thăm gập người chồng và gập những bạn của chồng khi họ đang lao động hay trong khu thăm nuôi, và không bao giờ chị hé môi cho chồng mình biết về những gì bên ngoài để người chồng bớt phần lo lắng cho vợ con.
Những khi mà chị không thể ra thăm anh Lãm được thì chị gửi các bưu kiện để anh có thêm thức ăn và thuốc men hầu giữ gìn sức khỏe chờ ngày đoàn tụ.
Sau đó các chị liên lạc được với nhau và thành lập như một cái hội của các người vợ có chồng đi “cải tạo” để giúp đỡ nhau, thông báo cho nhau hay cùng nhau đi thăm chồng hoặc đem dùm các thùng hàng thăm nuôi nếu có chị nào không đi được chuyến đó ngõ hầu các người chồng trong tù không bị thiếu thốn về thực phẩm và thuốc men.
Nhờ có chị và các chị khác thay phiên nhau đi thăm nuôi chồng và tải đồ tiếp tế cho các bạn của chồng mà chúng tôi có được thêm thức ăn khô và thuốc men thường xuyên hơn.
Ngoài ra việc đến thăm chồng trong trại giam, các chị còn đem những tin vui về việc phái đoàn Hoa Kỳ thương thuyết với Hà Nội để sớm trả tự do cho những tù nhân chính trị và nhờ đó mà tinh thần các người tù được lên cao và sức khỏe cũng khả quan hơn.
Mỗi lần nghe tin chị đến thăm là hầu như cả khu giam bên tù chính trị đều vui mừng vì chị thường đem theo vài chục thùng hay giỏ quà tiếp tế cho hàng hai ba chục người bạn của chồng mình nữa.
Chúng tôi vui vì vừa đỡ được một buổi lao động cuốc đất ngoài nắng,  vừa được ra khu thăm nuôi gập chị, mà lại được biết thêm tin tức về gia đình của mình và những gì chúng tôi cần nhắn nhủ lại gia đình thì chị đều chuyển về đầy đủ.
Chỉ nghĩ đến cảnh chị đã vất vả khuân bao nhiêu là thùng đồ bao nhiêu là giỏ quà từ Sàigòn lên tầu hỏa và phải canh giữ chúng ba ngày đêm trên tầu sợ mất cắp, rồi lại kiểm soát từng thùng từng giỏ một để khuân chúng xuống tầu và thuê xe chở vào đến trại mất bao nhiêu công sức chúng tôi không khỏi xúc động và cám ơn chị nhưng lúc nào chị Lãm cũng xua tay và nở một nụ cười thật tươi.
Từ khi chị Lãm bắt được lá thư của chồng gửi về thì chị cứ như con thoi đi lên xuống từ Nam ra Bắc thăm nuôi anh ròng rã suốt 12 năm trời không biết mệt mỏi theo các chuyến xe lửa từ Nam ra Bắc và cho đến khi anh được chuyển vào Nam năm 1988 thì chị lại cho hai con đến thăm anh tại trại Hàm Tân Z-30 thường xuyên hơn nữa.
Nhiều lúc tôi cũng rất phục chị Lãm và những người vợ có chồng đi tù như chị vì ở nhà chị đã phải đóng vai người Mẹ và cả vai người cha bươn chải ra ngoài kiếm tiền nuôi con và nuôi chồng nữa trong một xã hội bị cai trị bởi những con người Cộng Sản vô nhân tính đang tìm cách trù dập những gia đình có thân nhân theo chế độ cũ.
Tôi tin rằng Trời Phật đã nhủ lòng thương xót mà độ trì và che chở cho các chị để được mạnh khỏe và bôn ba được trong cái xã hội mới đầy hận thù ấy mà nuôi chồng nuôi con mình.
Tại trại Ba Sao, Nam Hà ở ngoài Bắc cũng như trại Hàm Tân trong Nam, không những tên của chị Lãm trở thành quen thuộc với chúng tôi mà tên của các chị Trần Q. Lựu, chị Trương V. Thụy, chị Trần T. San, chị Lê V. Hoan, chị Nguyễn H. Trân, chị Huỳnh T. Nhơn, v.v., cũng không còn xa lạ với chúng tôi trong trại vì các chị không những thay phiên nhau đi thăm nuôi chồng mình mà còn tải hàng cho các gia đình bạn chồng nữa.
Các chị cũng liên lạc thường xuyên với Mẹ và các em tôi trong những lần thăm nuôi để cùng hỗ trợ nhau và nối kết với nhau trong một tấm chân tình thật là hiếm có trong khi mà các giá trị đạo đức và nền tảng gia đình của người Việt Nam từ nghìn xưa đang bị những “con người mới” và các đảng viên của xã hội chủ nghĩa này chà đạp và chối bỏ.
Khu thăm nuôi nhờ có các chị và gia đình đến thăm nom thường xuyên nên khởi sắc, như sống lại và đã làm tan biến đi phần nào sự u ám nặng nề của trại giam.
Sau một thời gian tiếp xúc, các cán bộ phụ trách khu vực này cũng dần dần tỏ ra nhiều thiện cảm với những gia đình tù nhân chính trị và tỏ vẻ cảm động trước tình nghĩa vợ chồng bền chặt và gắn bó của những gia đình tù nhân chính trị từ trong Nam chuyển ra Bắc.
Họ cũng rất thành thật nói rằng so với phụ nữ trong Nam thì đàn bà ngoài Bắc ngày nay không thể sánh bằng được, chưa nói đến chồng vào tù một thời gian thì đã  bỏ đi lấy chồng khác chứ chẳng chờ đợi năm tháng dài đằng đẵng như các chị trong Nam đâu.
Trong suốt 12 năm chị Lãm đi thăm anh từ ngoài Bắc vào đến trại giam trong miền Nam, thông thường thì cứ khoảng ba tháng là chị lại vào trại thăm anh một lần hay gửi quà qua bưu điện, qua xe đò hay qua các chị bạn và bao giờ cũng kèm một lá thư thăm hỏi anh.
Bẵng đi một thời gian cả sáu tháng, chúng tôi không thấy chị đến thăm anh tại Hàm Tân và cứ ngỡ là chị đã vượt biên?  Anh cũng thao thức không yên cho đến một hôm chị lại xuất hiện nhưng gầy ốm hơn tuy miệng lúc nào cũng tươi cười khi gập anh em chúng tôi.
Tối hôm đó, ngồi uống trà và hàn huyên với anh Lãm thì tôi mới hay hung tin là chị Lãm đã bị chứng bệnh nan y là ung thư bao tử và đang chờ mổ và điều trị. Một điều may mắn là bác sỹ phẫu thuật lại là một bác sỹ quân y ngày trước của VNCH cho nên khi biết tình cảnh của chị thì ông hứa sẽ hết sức giúp đỡ.
Tôi thấy hai mắt anh đỏ hoe và anh thẫn thờ như người mất hồn và chỉ biết an ủi anh là có bác sỹ giỏi thì không sao đâu mà thôi, rồi nín lặng vì ai cũng đang theo đuổi ý nghĩ riêng của mình.
Tôi chợt nhớ đến bài hát “Mầu Tím Hoa Sim”: “Sao không chết người trai khói lửa mà chết người em nhỏ hậu phương?” mà thấy ông Trời sao bất công quá.
Chị đã vượt qua không biết bao nhiêu là khó khăn gian nan để đeo đuổi không mỏi mệt việc thăm nuôi anh trong 12 năm ròng rã từ năm một chin bẩy chín đến một chín chín mốt để anh có sức khỏe và sống còn trong tù với một ước vọng chính đáng duy nhất là vợ chồng sẽ sớm có ngày đoàn tụ. Nhưng khi mà trái cây sắp chín và ngày đoàn tụ gần kề thì chị lại ngã bệnh. Quả thật chúng tôi không bao giờ ngờ được đó là sự thực.
Khi gia đình báo tin qua khu thăm nuôi là chị vừa mổ xong và đang nằm trong bệnh viện Sàigòn thì một sự kiện lạ lùng xẩy ra lần đầu tiên và duy nhất trong tù. Đó là tay cán bộ phụ trách khu thăm nuôi đã đề nghị với trại, lúc đó Thiếu Tá Nhu là một trưởng trại có đầu óc rất cấp tiến, để cho anh Lãm được đặc biệt về Sàigòn một ngày để thăm chị và đề nghị đã được chấp thuận.
Anh về thăm chị trong ngày rồi lại trở vào trại nhưng rất may mắn là chỉ vài tháng sau thì anh có tên trong đợt thả sau mười sáu năm bị giam giữ trong các trại tập trung. Anh là một trong số hơn một trăm người tù cuối cùng tại trại hàm Tân Z-30D.
Khi tôi được thả về một năm sau đó, tôi lại thăm gia đình anh chị và vẫn thấy tinh thần lạc quan ở con người đang mắc phải căn bệnh hiểm nghèo nhất của thế kỷ. Chị vẫn tươi cười dù là gầy ốm nhiều hơn trước.
Khi về thì anh làm thủ tục cho gia đình đi theo chương trình H.O và qua định cư tại Los Angeles, California một năm sau khi ra tù.
Sau khi cắt bao tử tại Sàigòn, chị Lãm lúc qua Cali đã được các bác sỹ Mỹ tận tâm chữa trị bằng Chemotherapy. Tôi đến thăm anh chị trong căn phòng apartment trên Los Angeles và không ngăn đựoc niềm xúc động vì sau vài năm chữa trị chị chỉ còn như bộ xương với làn da trắng trước kia bây giờ là xám đen vì hóa chất.
Vài năm sau khi qua được miền đất Tự Do thì chị trút hơi thở cuối cùng.
Rất đông bạn bè, nhất là những người đã cùng ở tù với anh Lãm đều đến phúng điếu và đưa chị ra nghĩa trang hoa hồng để an giấc nghìn thu.
Nhìn chiếc quan tài của chị đang hạ dần xuống để lấp đất, tôi chào vĩnh biệt chị lần cuối và nói khẽ với chị rằng chị là một trong những người phụ nữ Việt Nam, một người vợ của bạn mình mà tôi vô cùng mến phục.
Chị không những đã làm tròn bổn phận của một người vợ tù “cải tạo”, không những đã làm cho kẻ thù phải cảm động vì tình nghĩa vợ chồng trong xã hội của miền Nam ngày xưa, mà chị cũng đã làm bao nhiêu công đức giúp đỡ cho các bạn của chồng mình nữa trong suốt hơn một thập niên.
Nhờ có chị mà anh đã phục hồi được sức khỏe, lên tinh thần và đã sống sót sau mười sáu năm tù đầy. Gia đình chị đã được đoàn tụ trên vùng đất Tự Do, hai cháu bây giờ đã khôn lớn và đều có gia đình rồi cho nên chị hãy yên tâm an nghỉ.
Con người ta có sinh thì có tử nhưng con người ta không dễ gì mấy ai làm nổi những nghĩa cử như chị, không mấy ai có được một tấm lòng Bồ Tát như chị.
Vĩnh biệt chị Lãm.
(Còn tiếp)
(nguồn: phamgiadai.blogspot.de )