NỖI BUỒN TIẾNG VIỆT (Chu Đậu)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

NgonNgu

Ngôn ngữ thay đổi theo thời gian, theo sinh hoạt xã hội. Mỗi ngày, từ những đổi mới của đời sống, từ những ảnh hưởng của văn minh ngoại quốc mà ngôn ngữ dần dần chuyển biến. Những chữ mới được tạo ra, những chữ gắn liền với hoàn cảnh sinh hoạt xưa cũ đã quá thời, dần dần biến mất. Cứ đọc lại những áng văn thơ cách đây chừng năm mươi năm trở lại, ta thấy nhiều cách nói, nhiều chữ khá xa lạ, vì không còn được dùng hàng ngày Những thay đổi này thường làm cho ngôn ngữ trở nên sinh động hơn, giàu có hơn, tuy nhiên, trong tiếng Việt khoảng mấy chục năm gần đây đã có những thay đổi rất kém cỏi. Ban đầu những thay đổi này chi giới hạn trong phạm vi Bắc vĩ tuyến 17, nhưng từ sau ngày cộng sản toàn chiếm Việt Nam, 30 tháng 4 năm 1975, nó đã xâm nhập vào ngôn ngữ miền Nam.

Rồi, đau đớn thay, lại tiếp tục xâm nhập vào tiếng Việt của người Việt ở hải ngoại. Người ta thuận theo các thay đổi xấu ấy một cách lặng lẽ, không suy nghĩ, rồi từ đó nó trở thành một phần của tiếng Việt hôm nay Nếu những thay đổi ấy hay và tốt thì là điều đáng mừng; Nhưng than ôi, hầu hết những thay đổi ấy là những thay đổi xấu, đã không làm giầu cho ngôn ngữ dân tộc mà còn làm tiếng nước ta trở nên tối tăm.

Thế nhưng dựa vào đâu mà nói đó là những thay đổi xấu? Nếu sự thay đổi đưa lại một chữ Hán Việt để thay thế một chữ Hán Việt đã quen dùng, thì đây là một thay đổi xấu, nếu dùng một chữ Hán Việt để thay một chữ Việt thì lại càng xấu hơn. Bởi vì nó sẽ làm cho câu nói tối đi Người Việt vẫn dễ nhận hiểu tiếng Việt hơn là tiếng Hán Việt. Nhất là những tiếng Hán Việt này được mang vào tiếng Việt chỉ vì người Tầu ở Trung Hoa bây giờ đang dùng chữ ấy. Nếu sự thay đổi để đưa vào tiếng Việt một chữ dùng sai nghĩa, thì đây là một sự thay đổi xấu vô cùng. Sau đây, chúng tôi xin ghi lại một số từ ngữ (được tạm xếp theo vần abc) mà chế độ CSVN ép dân chúng dùng, đọc lên, nói lên sai với nguyên nghĩa, nghe thô tục, kỳ lạ và ảnh hưởng Tây phương rất nặng, khó có thể chấp nhận:

1. “Buổi đêm”: “Buổi đêm tôi có gặp đồng chí ấy.” Từ xưa đến nay người Việt không bao giờ nói “buổi đêm” cả, chỉ nói “ban đêm,” “ban ngày.” “Ban” được hiểu như là một thời gian khoảng 12 giờ, ban đêm 12 giờ cộng với ban ngày 12 giờ là 24 giờ. Còn “buổi” thì chúng ta có “buổi sang,” “buổi trưa,” “buổi chiều,” “buổi tối.” Ban ngày có 12 giờ và tạm coi như có 4 buổi, như vậy mỗi buổi có 3 giờ đồng hộ Night time, day time khác với morning; noon; afternoon; evening. Chúng ta thường nói: “Chờ ông ấy mất cả buổi.” Buổi ở đây là khoảng ba giờ. Câu nói khác: “Thế là mất một buổi cày.” Buổi ở đây lại có nghĩa mất cả một ngày công. Chế ra từ buổi đêm là làm hỏng tiếng Việt.

2. “Cải tạo” = transform, improve; re-education. Họ không phân biệt “cải tạo vật chất” với “cải tạo tư tưởng,” quan niệm chính trị. Nói: “Phải dùng cát để cải tạo đất,” khác với “Trung úy miền Nam bị đi tù cải tạo.” Nếu muốn chữa cho đất có màu mỡ hơn nên dùng “cải tiến,” “cải thiện”… Khoảng 50 năm nay từ “cải tạo” cả nước đã hiểu là ở tù rồi!

3. “Cảm giác”: “Xin anh cho biết cảm giác ra sao về hiện tượng đó” những gì cảm thấy được được bằng giác quan. Có ngũ giác: xúc giác (sờ chạm), thị giác (mắt thấy), thính giác (tai nghe), vị giác (lưỡi nếm), khứu giác (mũi ngửi). Đó là các “sense organs,” còn cảm giác và cảm tưởng; cảm tính (feeling, khác với lý tính) dễ lầm lẫn vì đó là sensation, impression. Dùng đúng chữ phải là: “Xin anh cho biết cảm nghĩ, cảm tưởng, về hiện tượng đó” chính xác hơn là “cảm giác.” (Ngoài ra impression còn có nghĩa là ấn tượng, dấu ấn). Chúng ta có thể nói: có cảm giác ghê sợ, nhờm tởm, lạt lẽo, ấm cúng… một giác xuất phát từ não bộ, tuy cũng do từ năm giác quan vừa kể gửi tín hiệu lên óc.

4. “Cầu lông” = Badmington = Một môn thể thao nhẹ nhàng gần giống quần vợt, có giăng lưới cao, dùng vợt nhẹ và quả cầu có gắn lông vũ, đánh qua lại trên lưới. Trên thực tế quả cầu “badmington” làm giả bằng nhựa không chế bằng lông gà lông vịt nữa. Cách gọi này thô tục quá! Tại sao không gọi là cầu lông vũ hoặc “bát-minh-tơn?” Người viết còn nhớ có lần đã bị bà vợ một đại tá sửa lưng, khi lỡ miệng nói: “Lông quả đào.” Bà kể lại, tôi bị bà Trg. Tg. Khg. một người miền Bắc chữa khéo: “Chị nên gọi là tuyết của quả đào thì lịch sự, thanh tao hơn.” Sau đây là cách dùng sai lạc, nhằm chủ đích tuyên truyền hoặc làm giảm đi hoặc tăng mức quan trọng của sự việc.

5. “Chất lượng”: Đây là chữ đang được dùng để chỉ tính chất của một sản phẩm, một dịch vụ. Người ta dùng chữ này để dịch chữ “quality” của tiếng Anh. Nhưng than ôi! Lượng không phải là phẩm tính, không phải là “quality.” Lượng là số nhiều ít, là “quantity.” Theo Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu, thì lượng là: Đồ đong, các cái như cái đấu, cái hộc dùng để đong đều gọi là lượng cả. Vậy tại sao người ta lại cứ nhắm mắt nhắm mũi dùng một chữ sai và dở như thế. Không có gì bực mình hơn khi mở một tờ báo Việt ngữ ở hải ngoại rồi phải đọc thấy chữ dùng sai này trong các bài viết, trong các quảng cáo thương mãi. Muốn nói về tính tốt xấu của món đồ, phải dùng chữ phẩm. Bởi vì phẩm tính mới là “quality.” Mình đã có sẵn chữ “phẩm chất” rồi tại sao lại bỏ quên mà dùng chữ “chất lượng.” Tại sao lại phải bắt chước mấy anh cán ngố, cho thêm buồn tiếng nước ta.

6. “Cuộc gặp” = meet, run into = hội kiến, gặp mặt, gặp gỡ, buổi họp. Nghe “Cuộc gặp” thấy cụt ngủn, chưa trọn nghĩa. Ý họ muốn tả một cuộc hội kiến tay đôi, một lần gặp gỡ, chưa hẳn là một hội nghị (conference). Nên dùng như thí dụ này: “Bộ trưởng Thái đã hội kiến gặp bộ trưởng Lào”…

7. “Cưới”: Nhà văn Lê Minh Hà đi từ miền Bắc, công tác ở Đông Đức, rồi xin tỵ nạn ở Đức, viết trong tập truyện ngắn “Trăng Góa”: “Bọn này chưa cưới,” “chúng tôi cưới” đó là thói quen từ vùng cộng sản. Đây không phải là lối hành văn mới lạ, kiểu cách chỉ là thói quen dùng sai từ To marry, get married, nhưng người Việt phải nói là: “Chúng tôi chưa làm đám cưới”; “bọn này cưới nhau.” Câu này lại do một vai nữ tự thuật, lại càng sai nặng nữa. Chúng ta chỉ nói “cưới vợ,” không bao giờ nói “cưới chồng” cả. Chỉ có hai trường hợp dùng được hai chữ “cưới chồng.” Một là cô gái có lỗi lầm nào đó, nhà gái phải bỏ tiền, chịu mọi chi phí đám cưới để lấy cho được một tấm chồng. Hai là những đồng bào thiểu số, sắc dân nào còn theo chế độ mẫu hệ, cô gái cưới chồng, vì chàng rể sẽ thuộc về nhà gái. Nhà gái phải trả cho nhà trai trâu, lợn, gà, chiêng đồng, v.v. để mua rể.

8. “Đại trà” = on a large scale = cỡ lớn, quy mô lớn. Thí dụ: “đồng bào trồng cây cà phê đại trà.” Tại sao không dùng như trước là “quy mô lớn”? Ngoài ra dùng “đại trà” là bắt chước Trung Quốc. Có thể gây hiểu lầm là “cây trà lớn !!”

9. “Đăng ký” = register = ghi tên, ghi danh. Nghĩa rất đơn giản, nhưng bắt chước Trung Quốc, cố dùng Hán-Việt. Câu nói sau đây nghe kỳ lạ: “Tôi đã đăng ký mua khoai mì ở Phường…” Tại sao không dùng “ghi danh,” “ghi tên ?” “Đăng ký” là một chữ mà người Cộng Sản miền Bắc dùng vì tinh thần nô lệ người Tầu của ho đến khi toàn chiếm lãnh thổ, họ đã làm cho chữ này trở nên phổ thông ở khắp nước. Trước đây, ta đã có chữ “ghi tên” (và “ghi danh”) để chỉ cùng một nghĩa. Người Tầu dùng chữ “đăng ký” để dịch chữ “register” từ tiếng Anh. Ta hãy dùng chữ “ghi tên” hay “ghi danh” cho câu nói trở nên sáng sủa, rõ nghĩa. Dùng làm chi cái chữ Hán Việt kia để cho có ý nô lệ người Tầu!

10. “Đầu ra, đầu vào” = output, input = cái đưa ra, cái đưa vào, dòng điện cho vào máy; dữ kiện đưa vào máy vi tính. Họ còn dùng có nghĩa là vốn, hoặc thì giờ, công sức bỏ vào và kết quả của cuộc đầu tư đó. Nhưng dùng “đầu ra, đầu vào” nghe thô tục (giống như từ bộ phận = một phần việc, một nhóm, tổ, đã bị nhà văn nữ Kathy Trần đốp chát, hỏi: “Bộ phận gì?” bộ phận của đàn ông, đàn bà hả). Có thể dùng “vốn đầu tư” và “kết quả sản lượng.”

11. “Giải phóng” = liberate, emancipate/ free, relieve, release = giải tỏa, xả ,thả, trả tự do. Chữ “giải phóng” chỉ nên dùng cho con người, không dùng cho loài vật, đất, vườn… Họ lạm dụng chữ giải phóng, nghe không thuận tai và sai nghĩa. Thí dụ: “Đã giải phóng (giải tỏa) xong mặt bằng để xây dựng nhà máy”; “Anh công an lưu thông tích cực công tác để giải phóng (giải tỏa) xe cộ”; “Em X giải phóng (thả) con chó !!” Những câu sau đây mới là dùng đúng cách: “Phong trào giải phóng phụ nữ”; “Công cuộc giải phóng nô lệ.”

12. “Hiển thị”: “Chỉ cần ấn nút thì mọi nhu cầu sẽ được hiển thị trên máy tính…” (appear on screen). Tại sao không nói “sẽ thấy hiện rõ trên máy.”

13. “Hùng hiểm”: ‘Địa thế nổi đó rất hùng hiểm…” hùng vĩ + hiểm trở (majestic greatness + dangerous).

14. “Khả năng”: Chữ này tương đương với chữ “ability” trong tiếng Anh, và chỉ được dùng cho người, tức là với chủ từ có thể tự gây ra hành động động theo chủ ý. Tuy nhiên hiện nay ở Việt nam người ta dùng chữ “khả năng” trong bất kỳ trường hợp nào, tạo nên những câu nói rất kỳ cục. Ví dụ thay vì nói là “trời hôm nay có thể mưa,” thì người ta lại nói: “trời hôm nay có khả năng mưa,” nghe vừa nặng nề, vừa sai. “Có khả năng”: Đây là cách sử dụng rất Tây, thí dụ: “Hôm nay thời tiết có khả năng mưa,” chúng ta tạm chấp nhận (sao không nói giản dị là: “Hôm nay trời có thể mưa”?). Thí dụ này khó chấp nhận: “Học sinh X có khả năng không đạt điểm tốt nghiệp.” Có khả năng là ability; aptitude; capacity và luôn luôn dùng ở trạng thái tích cực (positive), không bao giờ dùng với trạng thái tiêu cực (negative). Những câu sau đây nghe rất chướng: “Bệnh nhân có khả năng bị hôn mê.” “Địch có khả năng bị tiêu diệt…” v.v…

15. “Khả thi” = feasible, applicable; ability to carry out = có thể thực hiện được, có thể thi hành được. “Khả thi” và “bất khả thi” cũng chịu ảnh hưởng nặng của Trung Quốc. Sao không dùng: “không thực hiện được” hay “không thực hiện nổi.” Ngoài ra “khả thi” sẽ đưa đến sự hiểu lầm là “có thể dự thi được.”

16. “Khẩn trương”: Trước năm 1975 chúng ta đã cười những người lính cộng sản, khi họ dùng chữ này thay thế chữ “nhanh chóng.” Nhưng than ôi, ngày nay vẫn còn những người ở Việt Nam (và cả một số người sang Mỹ sau này) vẫn vô tình làm thoái hóa tiếng Việt bằng cách bỏ chữ “nhanh chóng” để dùng chữ “khẩn trương.” Đáng lẽ phải nói là: “Làm nhanh lên” thì người ta nói là: “làm khẩn trương lên.”

17. “Khẳng định”: Thói quen dùng động từ này bị lạm dụng: “Diễn viên X đã khẳng định được tài năng”; “Đồng chí A khẳng định ở vị trí giám đốc.” Khẳng định; xác định, xác nhận = affirm và confirm có nghĩa gần giống nhau, ngoài nghĩa theo luật pháp có nghĩa là phê chuẩn, chuẩn y. Tuy nhiên âm thanh của khẳng định nghe nặng nề.

18. “Kích cầu” = to level the bridge/ needing to sitimulate = nhu cầu để kích thích/ nâng cao cái cầu lên. Cả hai nghĩa đều hàm ý là chất xúc tác, kích thích tố khiến sự việc tiến nhanh hơn. Cách dùng hơi lạ: Bên công chánh có lối dùng những con đội để nâng cao cái cầu giao thông lên. Tại sao không dùng “kích thích tố,” “chất xúc tác” như trước?

19. “Làm rõ”: “’Công an Phường 16 đang làm rõ vụ việc này.” Làm rõ=clarify, cần làm rõ vì có sự mù mờ, chưa minh bạch, ngoài còn có nghĩa gần như nói lại cho rõ, đính chính. Đúng nghĩa phải là điều tra = investigate. Cách sử dụng từ làm rõ cũng giống như làm việc (với công an) chỉ nhằm xóa bớt sự ghê sợ, hãi hùng của người dân khi phải tiếp xúc với công an cộng sản. Họ cố tránh những động từ như “điều tra,” “khai báo,” “trình diện” v.v…

20. “Liên hệ”: Cũng từ miền Bắc, chữ này lan khắp nước và nay cũng tràn ra hải ngoại. “Liên hệ” là có chung với nhau một nguồn gốc, một đặc tính. Người cộng sản Việt Nam dùng chữ “liên hệ” để tỏ ý nói chuyện, đàm thoại. Tại sao không dùng chữ Việt là “nói chuyện” cho đúng và giản dị. Chữ “liên hệ” dịch sang tiếng Anh là “to relate to,” chứ không phải là “to communicate to.”

21. “Ngài”: “Bộ trưởng ngoại giao ta đã gặp Ngài Brown thị trưởng thành phố San Francisco .” Ngài là “Sir,” một tước vị của Hoàng gia nước Anh ban cho một nhân vật nào đó. Sir có thể dịch ra là Hiệp sĩ, cũng có thể là Knight = Hầu tước xuống đến tòng Nam tước = Baronet. Theo nghĩa thứ nhì “ngài” là một từ dùng để xưng hô và là một từ tôn xưng như cụ, ông bà, bác, chú. Trong cả hai trường hợp câu trên đều sai. Ông W. Brown chưa bao giờ được Nữ hoàng Anh trao tặng tước hiệu Sir. Theo lối xưng hô chính thức ngoại giao của Mỹ và theo lối Việt Nam, không nên gọi ông W. Brown là Ngài viết hoa. Theo lối xưng hô chính thức của Mỹ, trên văn thư phải là:
The Honorable W. Brown
Mayor of San Francisco

Hình thức chào hỏi:
Sir: Dear Mayor Brown

Như thế gọi một ông thị trưởng Mỹ là Ngài đã hoàn toàn sai. Qua sách báo từ sau 1954, miền Bắc dùng sai và lạm dụng từ Ngài. Cách dùng thứ nhất để tôn xưng quá đáng giới chức ngoại quốc, thứ nhì là để chế diễu, khôi hài các nhân vật trong khối tự do dân chủ, và ở miền Nam, thí dụ: Ngài đại úy, ngài thiếu tá ngay cả có dạo họ đã gọi Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ là Nguyên soái! Từ sau 1954, trong miền Nam gần như không bao giờ chúng ta thấy xuất hiện từ Ngài! Chế độ cộng sản tự nhận là vô sản, đánh phong kiến, diệt quan lại, nhưng nay họ lại quan lại, phong kiến hơn ai hết. Chứng cớ qua từ tôn xưng Ngài và họ còn tự nhận và gọi các cán bộ và nhân vật quan trọng ngoại quốc là Quan chức. Quan chức = officials, có thể dịch là “viên chức,” hay “giới chức ngoại giao,” “nhân viên chính phủ,” “phái đoàn ngoại giao,” v..v…

22. “Nghệ nhân”: Ta vốn gọi những người này là “nghệ sĩ.” Mặc dù đây cũng là tiếng Hán Việt, nhưng người Tầu không có chữ “nghệ sĩ,” họ dùng chữ “nghệ nhân.” Có những người tưởng rằng chữ “nghệ nhân” cao hơn chữ “nghệ sĩ,” họ đâu biết rằng nghĩa cũng như vậy, mà sở dĩ người cộng sản Việt Nam dùng chữ “nghệ nhân” là vì tinh thần nô lệ Trung Hoa.

23. “Quản lý” = management = quản trị, chịu trách nhiệm. Bắt chước từ Trung Quốc và bị lạm dụng. Nói: “Anh X quản lý một xí nghiệp” thì được, nhưng câu sau nhái lại khôi hài “Anh sẽ xây dựng với đồng chí gái, và đồng chí gái sẽ quản lý đời anh…” “Quản lý” chỉ dùng để trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, hành chánh. “Quản lý” không dùng cho lĩnh vực tình cảm được, tình cảm không phải là một lô hàng, không phải là một xí nghiệp.

24. “Sơ hữu”: ‘Mối quan hệ Việt-Mỹ chỉ là sơ hữu. Sơ hữu + bạn mới quen, mới làm bạn (new friendship). Tại sao không nói: “Mối quan hệ Việt-Mỹ chỉ là bạn mới quen”?

25. “Sự cố”: “Sự cố kỹ thuật”: tại sao không dùng chữ vừa giản dị vừa phổ thông trước đây như ‘trở ngại hay “trở ngại kỹ thuật” hay giản dị hơn là chữ “hỏng”? (Nói “xe tôi bị hỏng” rõ ràng mà giản dị hơn là nói “xe tôi có sự cố”).

26. “Tai tệ nạn”: “Tai tệ nạn xảy ra khá nhiều trên đoạn đường này,” tai nạn + tệ nạn xã hội (accident + social crime/evil). Cách ghép nối kỳ lạ.

27. “Thành viên” = member = theo cách nói và viết thông thường là một người trong một tổ chức, hội đoàn, nhóm nào đó. Không thể dùng “thành viên” cho một cá nhân trong gia đình được. Thí dụ sau đây nghe rất Tây: “Các thành viên trong hộ đó có cha, mẹ và hai con / Bé Năm là một thành viên trong gia đình…” Tại sao không nói: “Trong gia đình đó có cha, mẹ và hai con/ Bé Năm là một đứa con trong gia đình…” Thí dụ sau đây mới là dùng đúng: “Mỹ là thành viên trong Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc có quyền phủ quyết…”

28. “Tham quan”: đi thăm, đi xem thì nói là đi thăm, đi xem cho rồi tại sao lại phải dùng cái chữ này của người Tầu! Sao không nói là “Tôi đi Nha Trang chơi,” “tôi đi thăm lăng Minh Mạng,” mà lại phải nói là “tôi đi tham quan Nha Trang,” “’tôi đi tham quan lăng Minh Mạng.”

29. “Tháng một; tháng mười hai”: Hiện nay ở Việt Nam trong trường học họ không dạy học sinh “tháng giêng” và “tháng chạp” nữa. Tháng giêng và tháng chạp là cách gọi rất Việt Nam. Lịch in ở Việt Nam ghi tháng một là tháng giêng cũ. Từ xưa đến nay chúng ta vẫn gọi tháng đầu năm âm lịch là “tháng giêng,” tháng thứ 11 là “tháng (mười) một” và tháng cuối năm là “tháng chạp.” Gọi là tháng chạp là do tháng cuối năm âm lịch có nhiều lễ, trong đó có lễ chạp. Ca dao đã có câu:

“Tháng chạp là tiết trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà.”

Tháng thứ 11 âm lịch gọi là “tháng một” dễ lầm lẫn với tháng giêng, nên đã tạm bỏ. Nhưng gọi tháng January dương lịch là “tháng một” nghe không ổn, phải gọi là tháng giêng. Còn tháng December gọi là tháng mười hai, không có vấn đề. Nhưng họ có dạy cho học sinh tiểu học hiểu rằng muốn chỉ tháng thứ 12 trong năm âm lịch bắt buộc phải gọi là tháng chạp không?

30. “Thống nhất”: “Tôi đã xuống huyện thống nhất đồng chí X.” Câu này mắc hai lỗi. Thứ nhất thiếu từ liên tự với, thứ nhì là thống nhất điều gì, chuyện gì. Thống nhất (unify; unified). Trường hợp này phải nói là “đồng ý” với; “nhất trí” với.

31. “Thứ nhất, thứ nhì“: Từ xưa theo cách đếm số, chúng ta có con số thường (cardinal number) như 1.2.3.4 và số thứ tự (ordinal number) thứ nhất, thứ nhì. Hiện nay họ dường như không ưa dùng số thứ tự và gọi thứ nhì là thứ hai. Chỉ second; deuxième là “thứ hai” dễ lầm lẫn với “thứ hai” = Monday. Trên sách báo chỉ thấy viết: một là; hai là. Như thế chỉ riêng nước Việt Nam không cần đến số thứ tự (ordinal number) nữa sao?

32. “Tương thích”: “Giá cả đó tương thích với chất lượng mặt hàng…” tương đương = thích hợp (equal = appropriated). Cách ghép nối gượng gao.

33. “Tranh thủ”: Thay vì dùng một chữ vừa rõ ràng vừa giản dị là chữ “cố gắng,” từ cái tệ sính dùng chữ Hán Việt của người cộng sản, người ta lại dùng một chữ vừa nặng nề vừa tối nghĩa là chữ “tranh thủ.” Thay vì nói: “anh hãy cố làm cho xong việc này trước khi về,” thì người ta lại nói: “anh hãy tranh thủ làm cho xong việc này trước khi về.”

34. “Trao đổi” = exchange = theo nghĩa của họ là nói chuyện, đối thoại, hội thoại. Cách dùng chịu ảnh hưởng nặng Tây phương. Trao đổi theo đúng nghĩa là đổi chác ‘ông đưa cái giò, bà thò chai rượu. Họ chịu ảnh hưởng Tây phương quá nặng, vì trao đổi chỉ áp dụng cho hàng hóa (giao thương) hay con người. Thí dụ: “Hai nước trao đổi lãnh sự, trao đổi buôn bán, mậu dịch.” “Kiều và Kim Trọng đã trao đổi quà tặng tình yêu cho nhau.” Không bao giờ trao đổi lại có nghĩa là nói chuyện, đối thoại. Thí dụ sau đây cho thấy cách dùng sai lạc: “Anh Phillippe Jamet đang trao đổi với một bé gái Việt Nam…” Trao đổi gì? Quà tặng gì? Trao đổi không bao giờ có nghĩa là converse, talk to, chỉ là exchange thôi.

35. “Trọng thị”: Coi trọng (show consideration for/ attach important to) trong từ điển ghi là một từ cũ, không hiểu sao lại được dùng trở lại. Thí dụ: “Chúng ta phải trọng thị yếu tố đó.” Cứ nôm na nói: “Chúng ta phải coi trọng yếu tố đó” là đủ và giản dị rồi.

36. “Trúng thưởng” = reward, award. Thế nào gọi là thưởng? Thưởng là thưởng cho những cá nhân hay tập thể có công, tài giỏi, đạt thành tích cao… Thưởng đi đôi với phạt. Vậy không thể nói: “Mua hàng sẽ được trúng thưởng…/ Anh X trúng thưởng xổ số thành phố X. được 50 triệu.” Đó chỉ là quà tặng, biếu không, không phải là thưởng, và chỉ là trúng xổ số chứ không lĩnh thưởng. Xổ số là hình thức đánh bạc, nên gọi tránh đi là trúng thưởng (Thật là mâu thuẫn, trong khi đó họ bỏ tiền ra mua máy đánh bạc đặt trong các khách sạn lớn!!)

37. “Trúng tuyển” (nghĩa vụ quân sự) = select, choose/ recruit. Chúng ta vẫn nói và viết “tuyển sinh,” “tuyển quân,” “tuyển mộ,” “tuyển dụng”… Nhưng nói: “trúng tuyển nghĩa vụ” thật là khôi hài. Nghĩa vụ quân sự là thi hành quân dịch, đến tuổi phải đi, bắt buộc phải đi, không có chuyện trúng tuyển hay không được tuyển (nên dùng theo nghĩa xấu chỉ có dân nghèo, không có tiền đút lót và không phải là con cán bộ cao cấp, mới bị trúng tuyển).

38. “Tư liệu”: Trước đây ta vốn dùng chữ “tài liệu,” rồi để làm cho khác miền Nam, người miền Bắc dùng chữ “tư liệu” trong ý: “tài liệu riêng của người viết.” Bây giờ những người viết ở hải ngoại cũng ưa dùng chữ này mà bỏ chữ “tài liệu,” mặc dù nhiều khi tài liệu sử dụng lại là tài liệu đọc trong thư viện chứ chẳng phải là tài liệu riêng của ông ta.

39. “Vị trí” = place/ position/ job, task = chỗ đứng, vị thế / nơi chốn/ việc làm, trách vụ. Nhưng họ dùng “vị trí” cho luôn cả nghĩa là “trách vụ,” “việc làm.” Câu nói sau đây là sai: “Anh A đã thay anh B công tác ở vị trí kế toán trưởng.” Nên nói: “Anh A đã thay anh B công tác ở trách vụ kế toán trưởng” mới đúng. Thường thường chúng ta hay dùng: “Tiểu đội A đã chiếm được một vị trí trên cao, từ đó có thể ngăn chặn được trung đội địch tiến lên đồi.”

40. “Vùng sâu xa”: Vùng rừng núi, đầm lầy (highland = swamp area). Đây là cách sử dụng chữ trốn tránh thực tế. Vùng ở trong sâu hiểu là vùng hẻo lánh, sình lầy và vùng xa tức là vùng trên cao, ở xa. Đây là cách dùng mị dân, cũng như để dễ bề đẩy giáo viên, kỹ sư, bác sĩ không phe đảng, không là con cháu cán bộ đến phục vụ nơi khỉ ho cò gáy. Ngoài ra “sâu xa” còn gây hiểu lầm với “lòng cảm ơn, biết ơn sâu xa” đã quen dùng trước đây.

41. “Xuất khẩu,” “Cửa khẩu”: Người Tầu dùng chữ khẩu, người Việt dùng chữ cảng. Cho nên ta nói “xuất cảng,” “nhập cảng,” chứ không phải như cộng sản nhắm mắt theo Tầu gọi là “xuất khẩu,” “nhập khẩu.” Bởi vì ta vẫn thường nói phi trường Tân Sơn Nhất, phi cảng Tân Sơn Nhất, hải cảng Hải Phòng, giang cảng Saigon, thương cảng Saigon. Chứ không ai nói phi khẩu Tân Sơn Nhất, hải khẩu Hải Phòng, thương khẩu Saigon trong tiếng Việt. Khi viết tin liên quan đến Việt Nam, ta đọc bản tin của họ để lấy dữ kiện, rồi khi viết lại bản tin đăng báo hay đọc trên đài phát thanh tại sao không chuyển chữ (xấu) của họ sang chữ (tốt) của mình, mà lại cứ copy y boong?

42. Còn hai từ nữa bị người dân miền Bắc lạm dụng vì lây cách dùng của cán bộ là “bản thân” và “chủ yếu”: “Bản thân” = self, oneself, và “Chủ yếu” = main, principal. Qua những câu chuyện thường ngày, chúng ta nghe họ dùng hai từ này bừa bãi, sai lệch: “Thức ăn chủ yếu của đồng bào vùng này là ngô và khoai”; “Chúng tôi lấy gạo làm chủ yếu để qui thành giá trị trao đổi.” Và: “Bản thân tôi cũng không tránh khỏi dao động.” “Bản thân sự kiện đó còn nhiều tồn tại.” Người ta đã bỏ quên chữ “tự và chính” được dùng từ xưa đến nay, thí dụ: “Thức ăn chính của đồng bào”; “Chính tôi cũng không tránh khỏi dao động”; “Tự thân sự kiện đó.” Hiện nay đang có phong trào ghép chữ bừa bãi giữa hai từ Hán-Việt + Hán-Việt hoặc Hán-Việt + Nôm. Thí dụ: “động thái,” “thể trạng,” “siêu sao,” “siêu trường.” Động thái là hành động + thái độ (action + attitude); thể trạng là tình trạng thân thể (physical form sitituation); siêu sao = super-star; siêu trường = super-long nghe lạ tai. Đã đành là ngôn ngữ chẳng qua chỉ là những ước hiệu con người sử dụng để hiểu nhau, thông cảm nhau. Tuy nhiên những ước hiệu đó không được khó hiểu, bí hiểm, khó nghe, chói tai, kỳ lạ.

43. Những danh từ kỹ thuật mới: Thời đại của điện tử, của computer tạo ra nhiều danh từ kỹ thuật mới, hay mang ý nghĩa mới. Những danh từ này theo sự phổ biến rộng rãi của kỹ thuật đã trở nên thông dụng trong ngôn ngữ hàng ngày. Hầu hết những chữ này có gốc từ tiếng Anh, bởi vì Hoa Kỳ là nước đi trước các nước khác về kỹ thuật. Các ngôn ngữ có những chữ cùng gốc (tiếng Đức, tiếng Pháp) thì việc chuyển dịch trở nên tự nhiên và rõ ràng, những ngôn ngữ không cùng gốc, thì người ta địa phương hóa những chữ ấy mà dùng. Riêng Việt Nam thì làm chuyện kỳ cục là dịch những chữ ấy ra tiếng Việt (hay mượn những chữ dịch của người Tầu), tạo nên một mớ chữ ngây ngô, người Việt đọc cũng không thể hiểu nghĩa những chứ ấy là gì, mà nếu học cho hiểu nghĩa thì khi gặp những chữ ấy trong tiếng Anh thì vẫn không hiểu. Ta hãy nhớ rằng, ngay cả những người Mỹ không chuyên môn về điện toán, họ cũng không hiểu đích xác nghĩa của những danh từ này, nhưng họ vẫn cứ chỉ biết là chữ ấy dùng để chỉ các vật, các kỹ thuật ấy, và họ dùng một cách tự nhiên thôi. Vậy tại sao ta không Việt hóa các chữ ấy mà phải mất công dịch ra cho kỳ cục, cho tối nghĩa. Ông cha ta đã từng Việt hóa biết bao nhiêu chữ tương tự, khi tiếp xúc với kỹ thuật phương tây cơ mà. Ví dụ như ta Việt hóa chữ “pomp” thành “bơm” (bơm xe, bơm nước), chữ “soup” thành “xúp,” chữ “phare” thành “đèn pha,” chữ “cyclo” thành “xe xích lô,” chữ “manggis” (tiếng Mã Lai) thành “quả măng cụt,” chữ “durian” thành “quả sầu riêng,” chữ “bougie” thành “bu-gi,” chữ “manchon” thành “đèn măng xông,” chữ “boulon” thành “bù-long,” chữ “gare” thành “nhà ga,” chữ “savon” thành “xà-bông”? Bây giờ đọc báo, thấy những chữ dịch mới, thì dù đó là tiếng Việt, người đọc cũng vẫn không hiểu như thường. Hãy duyệt qua một vài danh từ kỹ thuật bị ép dịch qua tiếng Việt Nam, như:

a. Scanner dịch thành “máy quét.” Trời ơi! “máy quét” đây, thế còn máy lau, máy rửa đâu! Mới nghe cứ tưởng là máy quét nhà!
b. Data Communication dịch là “truyền dữ liệu.”
c. Digital camera dịch là “máy ảnh kỹ thuật số.”
d. Database dịch là “cơ sở dữ liệu.” Những người Việt đã không biết database là gì thì càng không biết “cơ sơ dữ liệu” là gì luôn.
e. Software dịch là “phần mềm,” “hardware” dịch là “phần cứng” mới nghe cứ tưởng nói về đàn ông, đàn bà. Chữ “hard” trong tiếng Mỹ không luôn luôn có nghĩa là “khô,” hay “cứng,” mà còn là “vững chắc” ví dụ như trong chữ “hard evident” (bằng chứng xác đáng). Chữ “soft” trong chữ “soft benefit” (quyền lợi phụ thuộc) chẳng lẽ họ lại dịch là “quyền lợi mềm” sao?
f. Network dịch là “mạng mạch.”
g. Cache memory dịch là “truy cập nhanh.”
h. Computer monitor dịch là “màn hình” hay “điều phối.”
i. VCR dịch là “đầu máy.” (Như vậy thì đuôi máy đâu ? Như vậy những thứ máy khác không có đầu hả?) Sao không gọi là VCR như mình thường gọi TV (hay Ti-Vi). Nếu thế thì DVD, DVR thì họ dịch là cái gì?
j. Radio dịch là “cái đài.” Trước đây mình đã Việt hóa chữ này thành ra-đi-ô hay rađô, hơặc dịch là “máy thu thanh.” Nay gọi là “cái đài” vừa sai, vừa kỳ cục. Đài phải là một cái tháp cao, trên một nền cao (ví dụ đài phát thanh), chứ không phải là cái vật nhỏ ta có thể mang đi khắp nơi được.
k. Chanel gọi là “kênh.” Trước đây để dịch chữ TV chanel, ta đã dùng chữ đài, như đài số 5, đài truyền hình Việt Nam, gọi là kênh nghe như đang nói về một con sông đào nào đó ở vùng Hậu Giang! Ngoài ra, đối với chúng ta, Saigon luôn luôn là Saigon, hơn nữa người dân trong nước vẫn gọi đó là Saigon. Các xe đò vẫn ghi bên hông là “Saigon – Nha Trang,” “Saigon – Cần Thơ” trên cuống vé máy bay Hàng Không Việt Nam người ta vẫn dùng 3 chữ SGN để chỉ thành phố Saigon. Vậy khi làm tin đăng báo, tại sao người Việt ở hải ngoại cứ dùng tên của một … để gọi thành phố thân yêu của chúng mình?! Đi về Việt Nam tìm đỏ mắt không thấy ai không gọi Saigon là Saigon, vậy mà chỉ cần đọc các bản tin, các truyện ngắn viết ở Hoa Kỳ ta thấy tên Saigon không được dùng nữa. Tại sao?

Đây chỉ là một vài ví dụ để nói chơi thôi, chứ cứ theo cái đà này thì chẳng mấy chốc mà người Việt nói tiếng Tầu luôn mất! Tất nhiên, vì đảng cộng sản độc quyền tất cả mọi sinh hoạt ở Việt nam, nên ta khó có ảnh hưởng vào tiếng Việt đang dùng trong nước, nhưng tại sao các nhà truyền thông hải ngoại lại cứ nhắm mắt dùng theo những chữ kỳ cục như thể! Cái khôi hài nhất là nhiều vị trong giới này vẫn thường nhận mình là giáo sư (thường chỉ là giáo sư trung học đệ nhất cấp (chưa đỗ cử nhân) hay đệ nhị cấp ở Việt Nam ngày trước, chứ chẳng có bằng Ph.D. nào cả), hay là các người giữ chức này chức nọ trong các hội đoàn tự cho là có trách nhiệm về văn hóa Việt Nam ở ngoài nước!

Trước đây Phạm Quỳnh từng nói: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn,” bây giờ Truyện Kiều vẫn còn mà cả tiếng ta lẫn nước ta lại đang đi dần xuống hố sâu Bắc Thuộc.

Than ôi!

 
Chu Đậu