Hắn ngày trước hay đi mua trà cho “bố già” của hắn, khi thì mua Chính Thái, có lúc đổi qua Ninh Thái, lại còn chọn “liên tâm” hay “ô long”.
Bố hắn không thích loại trà ướp hoa lài hay hoa sen cụ chỉ chuộng “trà mộc” mà chỗ cụ cho là bán trà ngon là tiệm trà “Văn hồng Phát” ở đường Khổng Tử và nhà chỉ có hắn đạp xe đi mua cho cụ.
Sáng dậy sớm theo cụ, nấu cho cụ ấm nước sôi, ngồi nhẩn nha xem cụ tỉ mẩn với cái thú uống trà, nghe cụ nói riết cũng nhập tâm
“Nhất thuỷ, nhì trà, tam bôi, tứ ấm, ngũ quân anh để miêu tả toàn bộ nghệ thuật thưởng trà”. Từ chiếc bình đất trà được rót ra chiếc chén lớn rồi từ đó chuyển qua những chung hạt mít, đưa lên mũi thưởng thức mùi hương rồi mới nhấm nháp. Cụ cũng đưa hắn một chung bảo “uống với bố”; ngứa mắt với kiểu cách nhiêu khê của cụ hắn hớp chỉ một hơi, cụ nhìn mắng “mày uống như ngưu ẩm”… chỉ vậy mà cũng qua nửa thế kỷ rồi.
Có lần ra Huế vào một quán trà cung đình xem thử nghệ thuật uống trà cung đình ra sao…cũng như những chuyện hai bố con hắn uống mỗi sáng, chỉ khác là cô pha trà vừa pha vừa giải thích nào là “Quan công tuần thành” nào là “Hàn Tín điểm binh” lại còn giải thích với hắn “ngũ quần anh”, tức tìm bạn trà, vì bạn trà là người bạn tri âm, cùng nhau thưởng trà, làm Đường thi, bộc bạch nỗi niềm… lại còn chuyện ta bà thế giới để cảm nhận cả trời, cả đất trong chén trà.
Lấy que gỗ khều lượng trà vừa đủ cho vào ấm trà, được gọi là “ ngọc diệp hồi cung”. Châm nước nóng rửa trà giúp trà ngấm nước hơn và nước pha trà được trong, đẹp được ví von là “cao sơn trường thuỷ” phân biệt với lần pha nước thứ hai là “hạ sơn nhập thuỷ”.
Hắn đòi tách “Quan công phò nhị tẩu” làm cô pha trà chỉ cười trừ vì ra ngoài bài bản, hỏi hắn, hắn trả lời “khi Quan Công đưa 2 chị dâu chạy loạn, tối gác ngoài phòng” tránh buồn ngủ ông uống trà đặc cho tỉnh, chén trà này kêu là “Quan công phò nhị tẩu”.
Hôm nào hắn bàn ngang chuyện uống trà với các lão hữu.
Ara
Hắn bày trò “trà đạo” tại hotel vùng Hakoné
Người Việt Nam mời nhau uống trà là để bắt đầu một lời tâm sự
“Người Việt Nam mời nhau uống trà không phải đơn thuần là để giải khát, mà là để biểu hiện một phong độ văn hóa thanh cao, một sự kết giao tri kỷ, một tấm lòng ước mong hòa hợp, một sự tâm đắc của những người đối thoại. Người Việt Nam mời nhau uống trà là để bắt đầu một lời tâm sự, để bàn chuyện gia đình, xã hội, chuyện thế thái nhân tình, để cảm thấy trong chén trà có cả hương vị của đất trời, cỏ cây và muôn vật.” ( G.S Trần Ngọc Thêm)
Nhiều người thường đặt câu hỏi Việt Nam có trà đạo không? Tại sao Việt Nam không có một nền văn hóa trà để sánh với trà đạo Nhật Bản, với trà nghệ Trung Hoa, với trà buổi chiều của Anh quốc?
Nếu chúng ta cho rằng, đạo là con đường, là cung cách uống trà thì Việt Nam hẳn nhiên có trà đạo. Đó là cách uống trà của người Việt. Cách uống trà đó giản dị, gần gũi, nhưng cũng rất đỗi tinh tế như tâm hồn người Việt nên nó không là một cái đạo như trà đạo Nhật Bản, không quá cầu kỳ như trà nghệ Trung Hoa, cũng không quá thực dụng như trà phương Tây.
Còn nếu nói sâu xa hơn, thì trà đao Việt Nam không đạo ấy mà là đạo. Đạo ở đây là gì?
Cái đạo ấy bình dị như trong cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông: “đói ăn khát uống mệt ngủ liền”. Đó là khi uống một bát trà, người dân cảm thấy giải khát, sung sướng trong buổi trưa hè nắng nóng hay cảm thấy ám áp trong những ngày giá rét đêm đông.
Cây trà mọc lên từ đất, lớn lên trong ánh mặt trời và tắm mình trong gió trong mưa, nên khi nhấp một chung trà, con người như uống cả thiên nhiên phong thủy hỏa thổ vào lòng với niềm vui sướng.
Trà Việt mang tính chất gần gũi với thiên nhiên, nó dạy cho người thưởng trà cái tính cộng đồng, gần gũi, biết cảm ơn những người đã hai sương một nắng trên cánh đồng trà…
Thưởng thức một chén trà mang phong cách trà Việt là việc mang nhiều ý nghĩa. Màu nước vàng sánh trong xanh, hương trà, hương hoa tự nhiên là hình ảnh Việt Nam với rừng vàng, biển bạc, tài nguyên phong phú. Vị đắng chát gợi lên nỗi vất vả, cần lao của những người làm trà truyền thống bao đời nay. Hậu vị ngọt mát của trà chính là tâm hồn người Việt giàu tình, giàu nghĩa, có thủy, có trung. Vì vậy mà chén trà cho con người gần điều thiện, xa lánh điều ác, đoàn kết hơn, chia sẻ hơn.
Nghệ thuật uống trà phản ánh phong cách văn hoá ứng xử của người Việt Nam. Trong gia đình truyền thống, người nhỏ pha trà mời người lớn, phụ nữ pha trà mời các ông. Người ta có thể uống trà trong yên lặng suy ngẫm như để giao hoà với thiên nhiên.
Lấy việc rót trà làm ví dụ, sau khi tráng chén bằng nước sôi cho sạch và giữ nhiệt, người ta xếp các chén vào sát nhau, tạo thành một hình tròn. Bình thường ai cũng nghĩ nó chỉ giúp cho việc rót trà dễ hơn. Nhưng nếu hiểu theo cái đạo của trà Việt thì sao ? Các chén nằm sát nhau thể hiện sự gắn bó giữa con người với con người, cái tình làng nghĩa xóm khi mời nhau chén trà. Hình tròn của các chén xếp thành thể hiện mong muốn viên mãn, đầy đủ.
Nếu rót trà theo hình tròn của các chén, mỗi chén rót một chút, từ đầu đến cuối, rồi lại vòng ngược lại đến đầu, điều này làm cho trà không có sự chênh lệch đậm nhạt giữa chén đầu và chén cuối. Ý nghĩa của nó là thể hiện sự bình đẳng giữa chủ và khách trong sự hưởng thụ tinh tuý của thiên nhiên. (Cũng có thể rót nước trà vào một chén to, gọi là chén tống, rồi từ chén to rót sang các chén con, gọi là chén quân, cho đều nước). Nếu rót liền tay một vòng không ngừng thì gọi cách rót đó là “Quan Công tuần thành”, còn nếu rót một chén rồi cao tay lên mà ngắt nước trà rồi mới chuyển qua chén khác gọi là ” Hàn Tín điểm binh” (2 cái này là du nhập từ Trung Hoa).
Tất cả những cái đó không phải tự nhiên mà có, không phải ngẫu nhiên người xưa thuận tay mà tạo ra như vậy, nó là cái đạo hết sức giản dị của ông cha ta.
Nói như G.S Trần Ngọc Thêm: “Người Việt Nam mời nhau uống trà không phải đơn thuần là để giải khát, mà là để biểu hiện một phong độ văn hóa thanh cao, một sự kết giao tri kỷ, một tấm lòng ước mong hòa hợp, một sự tâm đắc của những người đối thoại. Người Việt Nam mời nhau uống trà là để bắt đầu một lời tâm sự, để bàn chuyện gia đình, xã hội, chuyện thế thái nhân tình, để cảm thấy trong chén trà có cả hương vị của đất trời, cỏ cây và muôn vật.
Tục uống trà với cả một hệ thống những kinh nghiệm tinh tế những quy ước ứng xử bất thành văn từ ngàn đời xưa như thế, khác chi một thứ đạo? Sở dĩ nó không trở thành “đạo trà” như chaodo của Nhật Bản được, chẳng qua vì nó phổ biến rộng quá, trở thành thói quen toàn dân từ sớm quá, cộng thêm tính linh hoạt cố hữu của căn hóa Việt Nam không chịu gò mình vào một khuôn khổ nhất định nào.
Từ đó cho ta thấy, Văn hóa Việt Nam rất có giá trị. Chẳng phải cuộc sống cho chúng ta thấy rằng: Cái gì đơn giản nhất mà làm người ta thấy an vui nhất thì đó là thứ giá trị nhất? Văn hóa Việt Nam đơn giản, mộc mạc và bình dị chấp nhận những điều mộc mạc, giản tiện nhằm để cho cuộc sống hài hòa hơn với thiên nhiên, với mọi người, và chính thế giới nội tâm của mình.
Qua trà Việt, chúng ta cũng thấy được phần nào sự tinh tế của người Việt Nam, thú hưởng thụ cuộc sống bằng những điều tưởng chừng như nhỏ nhoi, đơn giản nhưng chứa đựng biết bao tâm tình.
VietHaiTran St