HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH QUA DÒNG NHẠC VIỆT (Lê Hữu)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Hình Tượng Người Lính Qua Dòng Nhạc Việt - Viet Thuc

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
(“Tây tiến”, thơ Quang Dũng)

 

Xa nhìn thấp thoáng trong mây

muôn bóng quân Nam chập chùng… (1)

Câu hát ấy, từ bao năm nay vẫn cứ theo tôi, theo tôi mãi. Câu chuyện bắt đầu tư những ngày xa xưa, thuở tôi còn là cậu học trò nhỏ vừa bước vào năm học đầu tiên của một trường trung học ở thành phố cao nguyên có cái biệt danh nghe buồn buồn là “Buồn-muôn-thuở”. Cậu học trò ấy, vào mỗi sáng thứ Hai, cùng chúng bạn đứng xếp hàng ngay ngắn trước sân cờ nao nức chờ đợi phút giây được tham dự vào nghi thức thượng kỳ đầu tuần trong bầu không khí thật trang nghiêm giữa sân trường thuở ấy.

“Đứng thẳng người,” thầy tôi dặn, “ngực ưỡn ra, miệng hát lớn, mắt hướng về lá quốc kỳ cho tới khi bài quốc ca chấm dứt.” Tôi đã làm theo đúng lời thầy, mắt dõi theo lá cờ từ từ từ từ được kéo lên, nhẹ bay trong gió. Lá cờ màu vàng tươi phấp phới bay trong nắng sớm giữa bầu trời lồng lộng, có từng cụm mây trắng lững lờ… Bỗng nhiên, trong một thoáng, câu hát ấy -không phải câu hát trong bài quốc ca – nghe vẳng lên trong đầu tôi, Xa nhìn thấp thoáng trong mây / muôn bóng quân Nam chập chùng… Cùng lúc, tôi như nhìn thấy thoáng ẩn thoáng hiện trong những cụm mây nơi phía chân trời mờ xa, “chập chùng” những đoàn quân đang tiến bước.

Tôi không thể biết chắc những gì tôi nghe thấy và trông thấy ấy, là tiếng nhạc ở trong đầu, là “bóng mây ảo giác”, hay là những bài hùng ca, những bài học lịch sử mà chúng tôi học được từ những người thầy đã in hằn trong tâm trí, khiến mỗi lần dõi mắt trông theo lá cờ vàng phất phới trong nắng trong gió là mỗi lần câu hát ấy lại vẳng lên và đoàn quân ấy lại “thấp thoáng trong mây”.

Chúng tôi trông đợi những sáng thứ Hai, trông đợi những phút được đắm mình vào không khí đầy vẻ cuốn hút của buổi lễ thượng kỳ. Không khí ấy, với tôi, như mang một vẻ gì thiêng liêng, như nhuốm một vẻ gì bi tráng của những trang sử Việt hào hùng, của những chiến công thần kỳ và của những nợ máu xương chồng chất. Trong những phút ấy, lòng tôi bỗng dâng lên những cảm xúc thật kỳ lạ, vừa là niềm ngưỡng phục, vừa là niềm tự hào, vừa ngùn ngụt hào khí trong máu trong tim cậu học trò ở tuổi vừa lớn, hòa cùng tiếng nhạc trầm hùng như giục giã những bước chân đi tới.

Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!…

Những năm học nối tiếp theo nhau, và ngày tháng trôi đi bình lặng.

Thế rồi, những năm tháng êm đềm vụt biến mất, cơn bão ủa lịch sử đã cuốn phăng đi tất cả, cuốn phăng đi biết bao nhiêu là số phận. Không còn nữa lá cờ vàng phất phới giữa bầu trời lồng lộng, không còn nữa những đoàn quân “thấp hoáng trong mây”, không còn nữa ngôi trường chúng tôi yêu quý. Chúng tôi tan tác như bầy chim hoảng loạn.

Thế nhưng câu hát ấy, bài hát ấy và những bài hát về người lính, về những “đoàn quân ra đi”, từ bao năm nay vẫn cứ theo tôi, mãi mãi không rời.

Hành trình của người lính

Đây đoàn quân ra đi nhịp nhàng

mang theo thiên hùng ca / thắm tươi trời Nam bốn phương

Ta anh hùng muôn quân phá tan cường binh

chí tang bồng đem theo khắp nơi tung hoành

Những câu hát “hào khí ngút trời” ấy ở trong bài “Lục quân Việt Nam” (1950) của Văn Giảng & Hương Việt. Những “đoàn quân ra đi”, những “thiên hùng ca”, những “anh hùng” xông pha trận mạc “phá tan cường binh” và “khắp nơi tung hoành”… đã làm dậy lên bầu máu nóng hừng hực và lòng yêu nước nồng nàn của bao thanh niên thuở ấy, những muốn đem tài trai phụng sự tổ quốc và vẫy vùng ngang dọc để thỏa “chí tang bồng”.

1. “Từng đoàn người trai đi viết sử xanh” (2)

Mai ra đi không chút vấn vương

chiến trường kín tranh đấu

Là tài trai chí bốn phương / một lòng quyết lên đường!…

Tiến bước lên! Chiến đấu cho

đất Việt bừng sáng muôn đời!

“Quanh lửa hồng”, Nguyễn Thiện Tơ & Văn Khôi)

“Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt / xếp bút nghiên theo việc đao cung”. (3)Người trai ra đi với lời thề sắt son ghi trên báng súng. Màu áo chiến binh thay cho màu áo học trò.

Xếp áo thư sinh vui bước đăng trình

mười sáu tròn trăng

Ghi trên báng súng lời thề chinh nhân

tám hướng thành gần…

(“Mười sáu trăng tròn”, Trần Thiện Thanh)

Phút tiễn đưa chỉ có ánh mắt vời vợi trông theo của mẹ già như trao gửi nỗi niềm tin yêu.

Nhớ lúc lên đường đưa tiễn chân tôi

thương lên khoé mắt mẹ nhắn đôi lời,

“Diệt thù lập công cho xứng tài trai

sắt son ghi lòng chớ phai”

(“Biệt kinh kỳ”, Minh Kỳ & Hoài Linh)

“Hành trang giã từ” chàng trai mang theo luôn có lời dặn dò, nhắn nhủ thiết tha của người mẹ hiền yêu dấu.

Ra đi một sáng tinh sương

Mẹ ơi, con vẫn nhớ lời me khuyên,

“Con ơi, tình nước sâu hơn

hẹn ngày chiếng thắng con về vinh quang”

(“Ai về quê tôi”, Tiến Đạt)

Những bà mẹ Việt Nam đều giống nhau. Lòng thương con vô bờ nhưng “tình nước sâu hơn”, mẹ giấu đi nỗi bịn rịn và giọt lệ tiễn đưa để đứa con yêu thong dong lên đường.

Chàng trai đất Việt” trong câu hát của Thanh Châu được “minh họa” rõ nét là chàng “thanh niên Quốc Gia”, ra đi vì lý tưởng Quốc Gia.

Hôm ấy tay cầm tay trong thiết tha

anh là thanh niên Quốc Gia / lên đường vui xa quê nhà

(“Dặn dò”, Thanh Châu)

Những chàng trai trẻ đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân, cả những tháng năm tươi đẹp nhất của đời mình cho tình yêu đất nước. Những chàng trai “trong tim thì sôi máu / khóe mắt có trăng sao” (“Kỷ niệm”, Phạm Duy), đi dưới một “rừng cờ phấp phới”, một bầu “trời Việt mênh mang”.

Một đoàn người trai hiên ngang

đeo trên vai nợ máu xương

vui ra đi không buồn nhớ thương…

Một rừng cờ phấp phới / một mầu vàng chiêu dương

và một nền vinh quang bằng máu

Một trời Việt yêu dấu / một trời Việt mênh mang

giục đoàn người lên đường hiên ngang

(“Khởi hành”, Phạm Duy)

Những đoàn người nối tiếp những đoàn người, mang tổ quốc trên vai, mang tình yêu nước trong tim, hàng hàng lớp lớp theo nhau lên đường theo tiếng gọi của non sông.

Người đi giúp núi sông

hàng hàng lớp lóp chưa về / hàng hàng nối tiếp câu thề

giành lấy quê hương

(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”, Nguyễn Văn Đông)

Tiếng gọi giục giã, nao nức …

Em không nghe ngoài kia

trời đông đã lên rồi / bao lót người đi…

(“Hành trang giã từ”, Trường Sa)

Thao trường đổ mồ hôi / chiến trường bớt đổ máu. Ngưỡng cửa đầu tiên các chàng trai phải vượt qua là những rèn luyện và thử thách của “đoạn đường chiến binh” nơi các quân trường để trở thành người lính thực thụ.

Đây tiếng ca vang nơi quân trường đầy hào hùng

Vai sát vai / ta thi tài trong tình quân ngũ…

Anh em ơi! Anh em ơi!

Đem sức trai nêu chí hùng / lưu tiéng ngàn thu…

Cố lên! Cố lên/ Dù nhọc nhằn

đem mồ hôi pha máu hồng / viết thành sử xanh

(“Thao trường vang tiếng gọi”, Trầm Tử Thiêng)

Như những mũi tên bắn đi bốn phương tám hướng trong ngày lễ ra trường, những chàng trai đất Việt “lên đường nhập ngũ tòng quân” vừa là đứng lên đáp lời sông núi, vừa để thỏa chí tang bồng hồ thỉ, vẫy vùng ngang dọc.

Vì thương nước thương dân, thương quê hương mịt mờ khói lửa, thương những kiếp người lầm than, những người trai hôm nay vào chiến dịch, nguyện thề “dâng cả đời trai với sa trường”. Những nắm tay xiết chặt, những bước chân đi tới, những ánh mắt rạng ngời.

Thương dân nghèo ruộng hoang cỏ cháy

thấy nỗi xót xa của kiếp đọa đày / Anh đi! …

Hành trang của người lính trong nhạc Phạm Đình Chương là lòng yêu nước thương dân, là lòng súng nhân đạo cứu người lầm than. Hành trang ấy là chính nghĩa, là lý tưởng của người lính miền Nam, là đối nghịch với sắt máu, với bạo tàn.

Dẫu biết rằng “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, người lính chiến trên những tuyến đầu lửa đạn vẫn không hề nao núng lòng.

Không quên lời xưa đã ước thề

dâng cả đời trai với sa trường

Nam nhi cổ lai chinh chiến hề

nào ai ngại gì vì gió sương

“Anh đi chiến dịch”, Phạm Đình Chương)

Nhạc điệu rộn ràng và hùng tráng như một khúc quân hành.

2. “Anh đi mai về chiến thắng”

Người lính vẫn miệt mài đi, với lý tưởng phụng sự đất nước, với tinh thần quyết chiến quyết thắng cho một ngày hòa bình về trên quê hương.

Anh đi xây chiến thắng / dưới màu cờ quật cường

cho loài người hòa bình

“Dặn dò”, Thanh Châu)

Anh đi mai về chiến thắng

khi súng quân thù thôi vang trên non sông

Tươi thắm màu cờ vui reo trên kinh thành

(“Anh đi mai về”, Hoàng Nguyên)

Những đoàn quân trùng trùng tiến bước, “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Quân ra đi không luyến tiếc đời

Vui xa xôi xin nhớ phút về

đem vinh quang tô thắm nước nhà

Giờ đây đoàn quân cứ tiến!

(“Khởi hành”, Phạm Duy)

Câu nhạc kết thúc với hai nốt nhạc cuối rướn cao đột gột, mạnh mẽ, như bước chân dồn dập xốc tới… Những trái tim bừng bừng cảm xúc, những dòng máu sục sôi khí thế đã khơi nguồn nhạc hứng cho người nhạc sĩ để viết nên những bài hùng ca đẹp nhất và “hùng” nhất làm nức lòng chiến sĩ.

Ngày bao hùng binh tiến lên

bờ cõi vang lừng câu “Quyết chiến!”

Bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung hoành

Quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành

Đi là đi chiến đấu! Đi là đi chiến thắng!

Đi là mang linh hồn non sông

“Xuất quân”, Phạm Duy)

“Xuất quân” của Phạm Duy là tiếng trống thúc quân dập dồn hòa cùng nhịp bước quân hành.

“Thúc quân” của Văn Giảng & Hương Việt là điệu kèn xung trận, là lời thúc giục bao trai tráng lên đường “diệt tan giống tham tàn”.

Nhìn trong hơi gió thoảng bóng quân Nam lướt đi

Thề cùng diệt tan giống tham tàn thúc quân vùng lên!

Nơi đây đất nước đang hiến bao đấng anh linh

Xương trắng xây thành / cố tâm đền núi sông ơn nhà

“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa / gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”(3) người lính chiến vào sinh ra tử, luôn cận kề những bất trắc hiểm nguy, tuy không da ngựa bọc thây nhưng cũng lắm khi đi không ai tìm xác rơi như những người hùng không tên tuổi.

Dù thân này tan tành gói da ngựa cũng cam

Thề trọn niềm trung thành với sơn hà nước Nam!

“Việt Nam minh châu trời đông”, Hùng Lân)

Người lính can trường xông pha trận mạc với tinh thần quyết chiến quyết thắng, với khí thế “đánh một trận, sạch không kình ngạc / đánh hai trận, tan tác chim muông” (4) làm khiếp đảm giặc thù.

Tiếng súng ta như mưa / khiến thù gục đầu

dường như vẫn còn nghe

(“Bài ca chiến thắng”, Minh Duy)

Như người lính chiến ôm súng mơ ngày về quang vinh trong nhạc Phạm Đình Chương, ngày vui chiến thắng, ngày thanh bình về trên quê hương là nỗi khát khao của cả một dân tộc trong một đất nước bao năm chiến tranh ròng rã.

Ngày mai ngày vui chiến thắng

đón anh về nắng vàng gieo nơi nơi

Đàn bé đùa nô trước thềm

Mẹ già vui / thôi hết khóc chia phôi

(“Gửi người giới tuyến”, Nhật Lệ)

Những đoàn quân ra đi năm nào với niềm tin tất thắng, nay trở về ca khúc khải hoàn trong vinh quang chiến thắng.

Thủ đô ơi, thủ đô! Đoàn quân ta đã về đây!

Sau bao nhiêu ngày luôn ước mơ

ngày chiến thắng quay về chốn xưa

“Bài ca chiến thắng” của Minh Duy là một trong những bài hùng ca đẹp nhất làm dậy lên niềm tự hào về một quân lực đi là đi chiến đấu! đi là đi chiến thắng!

Thủ đô ơi thủ đô! Đoàn quân ta đã về đây!

Tiếng reo vang, vang dậy một trời

lớp lớp tinh kỳ bay trong gió!

(“Bài ca chiến thắng”, Minh Duy)

Vòng hoa chiến thắng mà người dân hậu phương choàng vào cổ những người lính vừa trở về từ chiến trường lửa đạn là vòng hoa của tình quân dân thắm thiết, của lòng cảm phục, biết ơn và tin cậy.

Kìa đoàn quân chiến thắng trở về với xóm làng

thành công còn ghi dấu đầu súng

Những tấm gương kiêu hùng / phất phới vui trong lòng

Bầu trời thủ đô đón mừng!

(“Bài ca chiến thắng”, Minh Duy)

Còn nỗi mừng vui nào lớn hơn, còn nỗi xúc động nào lớn hơn được trông thấy lại lá cờ thân yêu bay lồng lộng giữa bầu trời tổ quốc, trên thành phố quê ta vừa chiếm lại đêm qua bằng máu. Lá cờ vàng thấm máu những người lính kiêu hùng vừa ngã xuống đêm qua.

Cờ bay! Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu

vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…

Cờ bay! Cờ bay tung trời ta về với quê hương

từng ngóng đợi quân ta tiến về

(“Cờ ta bay trên Quảng Trị thân yêu”, Lê Kim Hoa)

Những người lính quả cảm dựng lại ngọn cờ vàng trên những thành quách đổ nát sau trận chiến khốc liệt giành lại từng tấc đất quê hương là một trong những cảnh tượng bi hùng nhất của những trang sử Việt.

“Lòng ta như thành này

Vinh quang trong tan nát?”

Câu thơ của Cao Tiêu là cảm xúc thực lòng của người lính trong những phút lặng nhìn ngọn cờ chiến thắng tung bay giữa hoang tàn đổ nát, khi chiến trận vừa kết thúc.

Vui bên nhau mắt lệ nghẹn ngào / quỳ hôn đất thân yêu

Quảng Trị ơi, chào quê hương giải phóng!

(“Cờ ta bay trên Quảng Trị thân yêu”, Lê Kim Hoa)

Những hy sinh gian khổ, những máu xương người lính đổ ra nơi tiền tuyến để giữ yên bờ cõi và mang về cuộc sống yên lành, ấm êm cho hậu phương vẫn luôn được người đời khắc ghi.

Anh về thủ đô biết bao là vui

đã để lại đây mến thương đầy vơi

Người dân nước Việt ghi ơn các anh

đã hy sinh vì giống nòi

(“Anh về thủ đô”, Y Vân)

Chiến thắng nào, vinh quang nào cũng phải trả giá. Cái giá đắt nhất người lính chiến phải trả là máu xương, là xác thân mình. Có xác phơi thây chiến địa, dưới chiến hào hay trên bờ tường. Có xác nằm lại trên đồi cao hay dưới vực sâu, bên khe suối hay cạnh bìa rừng. Có xác của người chiến sĩ vô danh, máu thấm vào lòng đất mẹ, thịt xương rã mục lẫn vào cỏ cây hoa lá. Làm sao kể hết được những hy sinh đền nợ nước của những anh hùng liệt sĩ sống anh dũng, chết hiên ngang, “nhẹ xem tính mệnh như mầu cỏ cây”. (3)

Ngày nào phơi xác nhớ không!

Thây rơi mênh mông trên khắp phố phường

Thân ôm tường / đầu gục đầu!

Ai trên đường / người nhuộm máu

Thây rơi trong đêm khuya lấp chiến hào

“Khởi hành”, Phạm Duy)

Biết bao người lính đi không hẹn ngày về, đi không về lại nữa. Biết bao người lính đã để lại một phần thân thể mình trên khắp các mặt trận để mang về những chiến công.

Chàng về / chàng về nay đã cụt tay

Máu đào đã nhuốm trên thây bao nhiêu quân thù

(“Nhớ người thương binh”, Phạm Duy)