CHUYỆN BIÊT KÍCH ..

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Chiến Tranh Ngoại Lệ 2 — Điệp Vụ tại Bắc Việt

Mặc dầu thành công với điệp viên Ares (chuyên xảy ra như thế nào vẫn chưa rõ), hồ sơ về những điệp viên đơn-độc (singleton) không được tốt đẹp lắm. Trong tháng Chín năm 1961, điệp viên thứ ba của phòng 45 bí danh Hero xâm nhập bằng đường biển, trở về liên lạc với gia đình bị thất bại. Chuyện này không thành công và phòng 45 phải thâu hồi ngay tức khắc. Cũng trong tháng đó, điệp viên Hirondelle (bài 1) xâm nhập trở lại vùng Hà- Tĩnh bằng đường biển. Lần ra đi này, anh ta biến mất. Trong năm 1962, danh sách các điệp viên đơn độc bị mất tích gia tăng.

Một điệp viên bí danh Triton, xâm nhập vào Hà-Tĩnh bằng tàu biển trong tháng Năm cũng biến mất không tìm ra manh mối. Cuối tháng đó, một điệp viên khác bí danh Athena xâm nhập cũng trong vùng biển Hà- Tĩnh. Người điệp viên đó chính là Ðặng-Chí-Bình (rất nổi tiếng trong giới người Việt hải ngoại qua bộ hồi ký ThépÐen), Athena bị bắt sau khi thi hành công tác ở Hà-Nội. Ðến năm 1963, chuyện gửi điệp viên nằm vùng dài hạn trong một xã hội kiểm soát quá chặt chẽ như ở miền Bắc rất khó khăn. Ngoại trừ Ares, bốn điệp viên khác xâm nhập bằng đường biển bị mất tích coi như đã chết.

Ngay cả chuyện bơi qua sông Bến Hải như Hirondelle đã làm trước đây cũng trở nên gay-go Nguy hiểm. Ðiệp viên bí danh Wolf xâm nhập qua vùng phi quân sự bị mất tích trong tháng Hai năm 1963. Mùa Hè 1963, phòng 45 chuẩn bị tái tiếp tế cho điệp viên Ares, họ hy vọng cũng sẽ thành công như năm trước. Ngày 11 tháng Tám, tầu rời Ðà-Nẵng. Hai hôm sau đến vịnh Hạ-Long, sáu người trên tàu xuống xuồng cao-su bơi xuồng vào bờ biển. Họ biến mất không quay trở lại, phần còn lại trên tàu hốt hoảng khi trông thấy tàu tuần tiễu Bắc Việt xuất hiện, họ dông một mạch tuốt về Ðà-Nẵng. Một lần nữa điệp viên Ares bị nghi ngờ. Cơ-quan CIA và phòng 45 đã bắt đầu phác hoạ kế hoạch xâm nhập miền Bắc bằng phương tiện thả dù từ năm 1961.

Thiếu-úy Lò-Ngân- Dung một sĩ-quan gốc người dân tộc Thổ vùng Lao-Cai Bắc Việt bí danh Jacques được phép tuyển mộ biệt kích lấy ra từ liên-đoàn Quan-Sát số 1. Ðơn vị này gồm đa số quân nhân quê quán nơi miền Bắc, những quân nhân sắc tộc Tày, Mường, Nùng tình nguyện từ những binh chủng thuộc QL/VNCH. Jacques lập toán đầu tiên gồm ba người Mường và một người Nùng. Bốn quân nhân thiểu số được đưa về sống nơi nhà an-toàn trong Saigon. Họ được huấn luyện dùng máy truyền tin. Họ đã có bằng nhảy-dù và tác chiến trong rừng từ liên-đoàn Quan-Sát số 1. Không như điệp viên Ares, phải xâm nhập vào xã hội miền Bắc, bốn quân nhân Biệt-Kích được huấn luyện sống biệt lập trong rừng núi. Sau ba tháng họ thụ huấn xong chương trình huấn luyện. Khi toán biệt-kích đầu tiên đã sẵn sàng, cơ-quan CIA phải quyết định tìm phương tiện hàng-không để thả dù toán biệt-kích xuống miền Bắc. Phương thức này đòi hỏi sự bảo-đảm và chối cãi được.

Trước đây CIA đã xử dụng nhiều loại phi cơ thả dù xuống Hoa Lục. Hãng hàng không của CIA là Air America đã được biết đến về những hoạt động trên đất Ai-Lao nên không thể dùng được (địch đã biết). Chỉ còn lại những phi công nam Việt-Nam trong Không- Lực VNCH có đủ khả năng để bay. Phi-đoàn này cũng phải được ngụy trang để có thể chối cãi. Cơ-quan CIA dựng nên hãng hàng không liên oanh Delaware Corporation

và Việt-Nam lấy tên là Việt- Nam Không-Vận (VIAT). Họ chỉ có một chiếc phi cơ vận tải C-47 không có phù-hiệu đơn vị. Về phi-công, CIA tìm đến thiếu-tá Nguyễn-Cao-kỳ chỉ huy trưởng căn cứ không quân Tân-Sơn- Nhứt.

Ông Kỳ tuyển mộ phi-công tình nguyện từ hai phi đoàn vận tải. Phi-đoàn mới do chính ông ta chỉ huy mang mật hiệu là Haylift. Những phi công trong đơn vị mới này đòi hỏi phải bay những phi vụ thả dù đêm, bay với cao độ thấp đến điạ điểm thả dù. Sau thời gian huấn luyện, chỉ còn lại phi hành đoàn năm người do thiếu-tá Kỳ chỉ huy và phi hành đoàn thứ hai (dự bị) do Trung-úy Phan-Thanh-Vân chỉ huy. Toán biệt-kích có bí danh Castor dựa trong thần-thọai Hy-Lạp là vị thần đã giúp đỡ Hercules. Thêm một sự trùng hợp khác, Castor là tên cuộc hành quân trong năm 1953 quân Pháp nhảy dù xuống Ðiện-Biên-Phủ. Toán Castor sẽ phải hoạt động trong một hoàn cảnh khó khăn.

Sau khi khám phá ra chiếc xuồng của điệp viên Ares trong tháng Hai, Hà-Nội đã để-ý. Ngày 1 tháng Ba, đảng cộng-sản Việt- Nam bí mật ban hành lịnh tăng cường cho lực lượng anninh chống điệp viên xâm nhập. Toán Castor dự trù sẽ lên đường ngày 27 tháng Năm, trăng tròn, thời tiết lý tưởng. Không như đơn vị Biệt-Hải, xâm nhập vào những đêm không trăng. Các phi công cần ánh sáng mặt trăng để bay, thường chỉ có bốn đêm trong một tháng. Các quân nhân biệt-kích cũng cần một độ sáng để điều khiển dù xuống bãi đáp.

Như đã chuẩn bị, bốn biệt kích quân trong toán Castor, lên chiếc C-47 không phù hiệu đậu trong phi trường Tân- Sơn- Nhứt. Người ngồi ghế lái phi cơ chính là thiếu tá Kỳ, tất cả phi hành đoàn đều không đeo phù hiệu, không mang theo tất cả mọi thứ giấy tờ. Trường hợp bị rớt trên miền Bắc, vỏ bọc ngoài của họ là thường dân đi buôn lậu. Mỗi người đem theo một trăm đô-la đề phòng trường hợp cần tẩu thoát.

Chiếc phi cơ chở toán Castor ghé Ðà-Nẵng lấy thêm nhiên liệu. Ðúng 10 giờ đêm, ông Kỳ cất cánh bay ra vịnh Bắc Bộ (Tonkin) về hướng tỉnh Ninh-Bình. Sau đó bay theo hướng tây bắc qua Hòa Bình rồi đến Sơn-La. Băng qua sông Ðà, dưới là ngọn đồi 828. Ông Kỳ bật đèn xanh, toán thả dù đẩy thùng đồ tiếp vận ra phiá cửa sau, toán biệt kích Castor nhẩy theo. Chiếc C-47 vòng lại và hướng về miền nam.

Trên đồi 885, trung-sĩ Hà- Văn-Chấp trưởng toán Castor, tháo dù và tập họp toán viên. Họ xuống ngọn đồi cách một làng gần đó chừng một cây số. Chín cây số về hướng nam là sông Ðà, thêm mười cây số nữa là đường số 6. Ðường 6 là một con đường chính, băng qua các tỉnh lân cận xuống tây nam đến thị trấn Sầm-Nứa trên đất Lào. Chánh quyền của tổng thống Kennedy tin rằng Sầm-Nứa là đất dụng võ của quân cộng-sản. Toán Castor sẽ cung cấp tin tức về sự chuyển quân của địch trên đường số 6, đó là nhiệm vụ chính của toán Castor.

Khi toán Castor nhẩy xuống đồi 885, dân làng gần đó nghe tiếng động cơ phi cơ và báo cáo cho lực-lượng Công-An Vũ-Trang Nhân-Dân. Sáng ngày 28, họ đã đoán được địa điểm nhẩy dù của toán biệt kích đêm qua. Công-an đến bao vây xung quanh đồi 885 và ba hôm sau họ bắt được bốn biệt kích trong toán Castor.

Phòng 45 vẫn chưa hay chuyện xẩy ra cho toán Castor, tiếp tục chương trình thả thêm những toán biệt kích khác. Ngày 2 tháng Sáu, toán thứ hai Echo gồm ba người phát xuất từ Ðà-Nẵng trên chiếc VIAT C-47 bay ra Bắc. Chiếc phi cơ vòng qua vĩ tuyến 17, vào đến không phận tỉnh Quảng-Bình. Toán Echo nhảy dù xuống vùng rừng núi nơi phiá bắc làng Trúc chừng năm cây số. Không còn gì xui hơn, khi toán biệt kích ra khỏi phi cơ đúng vào lúc hai làng ở phiá dưới đang có những buổi hội thảo. Nghe tiếng máy bay, họ ùa ra xem, nhìn rõ chiếc C-47 trên bầu trời sáng trăng. Tiếng đồng hồ sau, địch đã tổ chức xong cuộc truy kích gồm cả chó săn, công an và một đại đội lính điạ phương. Chuyện rủi ro đến với toán Echo ngay từ lúc đầu. Một biệt kích bị trôi dạt đi chừng ba cây số vướng trên một rừng cây, anh ta cắt dây dù, rơi xuống gãy chưn. Hai người còn lại biết bị lộ, báo cáo về Saigon cho biết tình hình và định chạy về phiá biên giới Việt-Lào để thoát thân.

Trước khi họ bắt đầu thực hiện ý-định, địch đã bao vây khu rừng, cả ba biệt kích quân bị bắt vào ngày hôm sau. Mười hai ngày sau, toán thứ ba Dido gồm bốn người sắc tộc Thái Ðen rời Ðà-Nẵng, mục tiêu hoạt động của họ là vùng dân tộc Thái Ðen. Lai Châu nằm về hướng tây bắc. Họ nhảy dù xuống gần đường số 6, khoảng giữa tỉnh-lỵ và con đường đến làng Tuần- Giao. Toán Dido sẽ dò thám xe cộ của địch đến Tuần-Giao mà một nhánh sẽ đi về thung lũng Ðiện-Biên-Phủ và qua Lào. Vùng thung lũng do sư đoàn 316 đóng quân. Thiếu-tá Kỳ từ vùng vịnh Bắc-Bộ lái vòng theo những tỉnh cực bắc, thả truyền đơn trên không phận tỉnh Cao- Bằng gần biên giới Hoa-Việt. Ðến địa điểm thả dù trong tỉnh Lai-Châu, bốn biệt kích quân toán Dido nhẩy ra và chiếc C-47 theo lộ trình thả toán Castor trước đây quay trở về miền nam an toàn.

Trên bãi đáp bốn biệt kích tháo dù đem dấu rồi tập họp. Thùng đồ tiếp liệu của họ trong đó có quần áo, long thực, đạn dược, máy truyền tin trôi lạc mất, tìm không ra. Sau ba tuần lễ, bị đói, toán Dido đụng phải công an biên phòng trên đường di chuyển qua Lào, họ bị bắt gần biên giới. Ðến tuần lễ thứ hai trong tháng Bảy, Hà-Nội đã nằm trong tay ba toán biệt kích. Họ biết rõ, sau khi thả toán biệt kích, ít lâu sau phải thả dù tiếp tế cho biệt kích. Ðịch quân ép buộc hoặc thuyết phục hiệu thính viên biệt kích làm việc với họ báo cáo về Saigon là toán vẫn an toàn. Kết quả miền bắc lấy được đồ tiếp liệu cho các toán biệt kích bị bắt và tóm luôn những toán sẽ được thả trong tương lai.

Ðúng 12 giờ trưa ngày 29 tháng Sáu, hơn một tháng sau khi xâm nhập, toán Castor gởi đi bức điện văn đầu tiên, họ được Saigon khuyến khích và hưá sẽ thả dù tiếp tế trong vòng bốn ngày. Chiều ngày 1 tháng Bảy, đồ tiếp liệu được chất lên chiếc C-47 bí mật trong phi trường Tân-Sơn- Nhứt. Ðúng ra thiếu ta Kỳ lái chuyến này, nhưng giờ chót ông giao trách nhiệm cho trung-úy Phan Thanh Vân. Trên phi cơ có thêm ba hạ sĩ- quan thuộc liên-đoàn Quan Sát số 1, đi theo phụ giúp việc đẩy thùng tiếp liệu ra khỏi phi cơ.

Chiều hôm đó, sau khi lấy thêm nhiên liệu trong phi trường ngoài Ðà-Nẵng, chiếc C-47 bay theo phi trình thả toán Castor và Dido. Trên bãi thả, công an vũ-trang đã bao vây, đợi chuyến thả tiếp tế cho toán Castor. Nơi Hòn Ne cách bờ biển Ninh Bình chừng sáu cây số, công an, quân đội nghe tiếng động cơ máy bay. Chiếc C-47 như thường lệ bay thấp để tránh radar, bị súng cao xạ từ Hòn Ne bắn lên trúng đạn và rớt xuống một bãi ruộng chừng hai mươi cây số trên đất liền.

Kenneth Conboy, Dale Andrade, United Press, 2000.

Bạch-Hổ

————————————————————————–

Chiến Tranh Ngoại Lệ 3

Sau vụ bắn rơi chiếc C47, bắt sống bảy người trong đó có phi công PhanThanh-Vân, Hà-Nội lỡ đã công bố trên đài phát thanh, báo chí nên không thể giấu giếm. Ít ra viên phi công hoặc cả bảy quân nhân biết rằng phi vụ của họ là tái tiếp tế cho toán biệt kích Castor. Nếu họ khai trước tòa án, Bắc Việt biết rằng có toán biệt-kích hoạt động trong tỉnh Sơn-La. Ðồng thời Saigon biết toán Castor đã bị bắt. Tuy nhiên Hà-Nội dựng nên một chuyện khác, chỉ có ba người bị đưa ra tòa án trong tháng Mười Một, bốn quân nhân khác đã chết vì vết thương. Trước tòa cả ba nhận tội có liên quan đến vấn đề biệt-kích… và trên đường đến tỉnh Hòa Bình chứ không phải Sơn-La. Ðến cuối năm, CIA và Saigon vẫn tin rằng toán biệt kích Castor vẫn còn hoạt động hữu-hiệu. Trong Saigon, trung-tá Tung cảm thấy hài lòng, chuẩn bị thả thêm biệt kích ra ngoài bắc. Bây giờ cơ quan CIA phải tìm phương tiện khác

(chiếc C-47 duy nhứt dã bị bắn rơi). Họ không thích loại phi cơ C-47 với hai lý-do, chiếc C-47 tầm hoạt động ngắn do đó chiếc phi cơ phải bay thẳng đến mục tiêu. Thứ hai, phi cơ phải lấy thêm nhiên liệu ngoài Ðà-Nẵng, biết đâu điệp viên Bắc Việt đã xâm nhập vào trong phi trường Ðà-Nẵng? Cuối cùng họ chọn phi cơ C-54 và huấn luyện hoa tiêu Việt-Nam, các phi công tình nguyện hoàn tất khoá huấn luyện đầu năm 1962.

Phòng 45 chuẩn bị toán biệt kích Europa gồm năm quân nhân sắc tộc Mường. Ngày 20 tháng Hai họ phát xuất từ phi trường Tân Sơn Nhứt do trung tá Nguyễn-Cao-Kỳ lái, không ghé Ðà-Nẵng như những phi vụ trước đây. Khi vào đến không phận tỉnh Hòa-Bình nơi có nhiều dân tộc Mường, đến bãi thả dù, ông Kỳ bật đèn xanh và năm biệt-kích Mường biết mất vào màn đêm.

Ðịa điểm thả toán biệt kích Europa trong quận Tân-Lạc là điều không nên (bad choice). Ðường số 6 chạy xuyên qua giữa quận, có nhiều đường nhỏ đi vào và nhiều làng mạc. Một lần nữa toán biệt kích bị lộ lúc đang nhẩy dù xuống bãi đáp. Sáng hôm sau, công an vũ trang phối hợp với tự vệ, khoá sinh đang thụ huấn biên phòng, truy lùng toán biệt kích. Tất cả bị bắt ngày hôm sau.

Hiệu thính viên toán Europa bị ép buộc gửi báo cáo về Saigon, toán đã đến mục tiêu an toàn. Phòng 45 phấn khởi, chuẩn bị tái tiếp tế cho toán Castor, lúc đó đã nằm vùng gần mười tháng. Họ hy vọng rằng với loại phi cơ C-54 mới, lần này sẽ gặp may. Chuyến đi này do đại-úy Hội lái, chiếc C-54 bí mật chở đồ tiếp liệu cất cánh từ Tân Sơn Nhứt bay đi Sơn-La. Trước khi đến mục tiêu, chuyện xui-xẻo lại xảy ra, gặp một cơn dông lớn, chiếc phi cơ đâm vào núi.

Trong Saigon, mấy tay Xiạ (CIA) trong ban kế hoạch hết sức mất-mặt, mất hai phi cơ trong vòng bảy tháng. Ðiều hơi mừng là điện văn bắt được của Hà-Nội cho biết do lỗi lầm của viên phi công gây nên tai nạn và họ không để-ý đến chuyện mất mát đó (?). Cũng vì vậy ban tham mưu trong Saigon vẫn còn tin tưởng nơi toán biệt kích Castor (vẫn còn hoạt động).

Cơ-quan CIA lại phải tìm chiếc phi cơ khác. Lần này họ liên lạc với Ðài-Loan với kinh nghiệm thả điệp viên xâm nhập Hoa-Lục từ năm 1952. Nhiều hoa tiêu Ðài Loan tình nguyện bay những phi vụ bí mật xâm nhập Bắc Việt. CIA cũng sắp xếp cho phi công từ Air-America (CIA) qua Ðài Loan huấn luyện những phi công tình nguyện về kỹ thuật bay ở cao độ thấp. Trong khi huấn luyện cho phi công Ðài-Loan, CIA và phòng 45 chuẩn bị cho toán biệt kích kế tiếp. Toán mới này có mật hiệu là Atlas gồm bốn người quê-quán trong tỉnh Nghệ-An, cả bốn được đưa vào trú trong nhà an-toàn nơi Saigon để huấn luyện. Toán Atlas có nhiệm vụ xâm nhập tỉnh Nghệ-An gần đường số 7. Cũng như toán Echo trước đây, họ sẽ dò thám mức độ di chuyển của địch qua đất Lào và bắt liên lạc với hai linh mục công-giáo, nhờ giúp đỡ che chở.

Trong tuần lễ đầu tiên trong tháng Ba năm 1962, toán Atlas được đưa qua Thái-Lan. Các phi công Tàu vẫn chưa xong khóa huấn luyện nên CIA dùng trực thăng của Air-America đưa toán biệt kích đến biên giới Lào và Nghệ-An, và toán sẽ di chuyển bộ đến mục tiêu. Xế chiều ngày 12 tháng Ba, toán Atlas lên đường cùng với đồ tiếp liệu trên hai chiếc trực thăng H-34, thêm một chiếc hộ tống.

Theo trực thăng hướng dẫn, trực thăng thả toán biệt-kích lúc trời sắp tối trên một ngọn núi sát biên giới. Toán Atlas mặc bà-ba đen, võ trang tiểu liên Stern (theo tiêu chuẩn CIA, dùng đồ không phải của Hoa-Kỳ). Sau ba ngày di chuyển về hướng đông (Nghệ-An, Việt-Nam) không gặp trở ngại, đến ngày thứ tư họ gặp một trẻ em. Theo lời một toán viên kể lại ‘Ðứa bé biến vào rừng nhanh như chớp!’. Sau đó đơn vị an ninh đến bao vây toán Atlas, một người trúng đạn chết. Trên đường chạy trở lại qua đất Lào, thêm một người nữa dẫm phải mìn chết. Còn lại hai người, gọi máy báo cáo không được vì thời tiết xấu, cuối cùng cả hai bị bắt.

Rút kinh nghiệm, CIA tiếp tục thả biệt kích ra ngoài bắc. Lần này dùng phi cơ C-46 phát xuất từ căn cứ không quân Takhli bên Thái-Lan, họ được đại-úy Ron Sutphine cùng với đại-úy M. D. ‘Doc’ Johnson bay trước hướng dẫn vào bãi thả dù. Toán kế tiếp là toán Remus gồm sáu ngườisắc tộc Thái Ðen. Cũng như toán Dido gồm những quânnhân sắc tộc Thái Ðen trước đây, toán Remus sẽ nhẩy xuống vùng thung-lũng Ðiện Biên-Phủ trong tỉnh Lai-Châu. Không phải vì là căn cứ quân sự lớn nhứt trong vùng tây bắc, cùng với sự hiện diện của sư-đoàn 316, ngoài ra sư đoàn này thường có những hoạt động trên đất Lào.

Toán Remus đề phòng bị lộ, sẽ nhảy dù xuống khu vực gần biên giới rồi xâm nhập bằng đường bộ đến mục tiêu. Ngày 16 tháng Tư, sáu biệt-kích nhảy dù xuống cách Ðiện Biên-Phủ mười lăm cây số về hướng tây bắc an toàn. Toán Remus gom lại và năm hôm sau, báo cáo về Saigon họ bắt đầu vượt biên giới xâm nhập vào miền bắc. Sau khi thả toán Remus thành công, phòng 45 quay trở lại làm việc với toán đầu tiên Castor. Cuối tháng Tư, toán Castor được lệnh di chuyển từ sông Ðà về phiá nam đến quân Mộc-Châu. Tại đó toán sẽ nhận đồ tiếp liệu mới cùng với toán Tourbillon xuống tăng cường. Không như những toán trước đây, toán Toubillon gồm bốn sắc tộc khác nhau trong đó ít nhứt hai người không phải sắc dân thiểu số. Nhiệm vụ cho toán Tourbillon cũng khác, không phải thâu thập tin tức mà đột-kích, tấn công chớp nhoáng phá hoại.

Tháng Năm trước đó, tổng thống Kennedy đã nhiều lần ra lịnh cho các giới chức lãnh đạo Hoa-Kỳ, cho các toán biệt kích hoạt động nơi miền Bắc thêm công-tác phá hoại. Tình hình bên Lào trở nên bết, thành phố Nam-Tha bị quân cộng-sản Pathet Lào chiếm với sự hổ trợ của vài tiểu đoàn Bắc Việt.

Toán Tourbillon sẽ nhảy dù xuống những ngọn đồi nơi phiá bắc quận Mộc-Châu rồi di chuyển sáu cây số về hướng nam tới đường số 6. Toán biệt kích sẽ phá sập mấy cây cầu trên đường số 6, ngăn chặn đường tiếp vận của Bắc Việt từ Ðiện-Biên-Phủ qua Lào. Ðiều này sẽ làm cản trở sự giúp đỡ quân cộng sản Pathet Lào, áp lực bên Lào sẽ nhẹ đi. Trước đây Lansdale đã phát biểu, nằm vùng trong một xã hội quản chế nghiêm khắc đã khó, chuyện phá hoại kể như quá khó khăn cho những quân nhân biệt kích trẻ.

Phòng 45 tiếp tục tuyển mộ tình nguyện quân trong liên-đoàn Quan-Sát số 1 bấy giờ đã đổi tên thành liên-đoàn 77. Bảy người được chọn, tất cả đã qua lớp huấn luyện nhảy-dù và biệt động, người hiệu thính viên cũng đã có kinh nghiệm vượt biên qua Lào hai lần. Ðến tháng Năm, quân-đội Hoàng-Gia Ai-Lao đang bại trận, trước khi quân cộng sản tấn công Nam-Tha. Toán Tourbillon ra đi bốn lần đều phải quay trở lại vì lý do thời tiết, vẫn nằm chờ trong phi trường Tân-Sơn- Nhứt khi Nam-Tha thất thủ ngày 9 tháng Năm. Một tuần sau toán Tourbillon ra đi, trên máy baydo phi công Ðài-Loan lái, những phi công này bị bắt buộc để lại tất cả giấy tờ tùy thân trước khi lên trực thăng.

Tới điểm hẹn với toán Castor, các biệt kích Tourbillon nhẩy dù xuống không biết ở dưới ngoài toán Castor còn có thêm ít nhất một đại đội công-an vũ-trang cùng với chó săn. Hôm đó gió thổi mạnh, các biệt kích quân trôi dạt đi, đơn vị công-an đuổi theo. Người toán phó bị vướng trên một ngọn cây và bị bắn chết trên cây, các biệt kích quân khác chạy tìm lối thoát khi xuống tới đất, hai hôm sau tất cả đều bị bắt.

Nhơn viên truyền tin bị côlập ngay tức khắc, Bắc Việt ép buộc phải báo cáo xuống mục tiêu an toàn. Phòng 45 tin tưởng rằng bãi đáp đã được toán Castor an-ninh nên rất tin, mặc dầu sau mười một ngày bị điều tra, ép buộc người tín hiệu viên mới gủi đi bản báo cáo đầu tiên. Bốn hôm sau khi toán Tourbillon nhẩy dù xuống Mộc-Châu, toán biệt-kích kế tiếp mật hiệu Eros lên phi cơ C-54 trong phi trường TânSơn- Nhứt.

Chuyến đi này, phi công bay theo đường vòng qua đất Lào, xâm nhập không

phận tỉnh Thanh-Hóa thả toán biệt-kích chớp nhoáng rồi bay về. Vấn đề xẩy ra quá nhanh, quân Bắc Việt chưa đề phòng, chuyến xâm nhập coi như thành công. Xuống tới đất, toán Eros gom lại an toàn, Họ gồm năm người thuộc sắc tộc Mường và Thái Ðỏ, cả hai sắc dân thiểu số đều sống nơi phiá tây tỉnh Thanh-Hoá. Toán này có điều lạ, trong ba người Mường, hai người là anh em, người thứ ba là anh em họ. Hai người Thái là chú cháu. Phòng 45 hy vọng sợi giây liên hệ sẽ làm toán gắn bó và họ dễ móc nối những người cùng sắc tộc với họ.

Sau ba tuần lễ trong rừng, vài người Thái trông thấy toán biệt kích. Hốt hoảng, toán Eros chạy lên hướng bắc. Mấy người Thái quay trở lại tìm thấy mấy lon đồ hộp lạ, không phải sản-xuất ở miền Bắc. Họ bèn báo cáo chuyện xảy ra lên công-an điạ phương. Trong khi đó toán Eros trên đường chạy đã gần hết lương thực, Saigon trả lời vì thời tiết xấu, chưa tiếp tế được.

Các biệt kích quân phải tìm đồ ăn cho họ. Ngày 2 tháng Tám, một lần nữa họ bị dân làng phát giác và cuộc truy lùng tiếp diễn. Lần này phòng 45 nhận được công điện khẩn của toán Eros rằng đang bị truy lùng. Ngày 29 tháng Chín, toán biệt-kích bị bao vây, một người trúng đạn chết, một bị bắt. Ba người kia chạy thoát nhập vào mấy người Lào đi săn bắn. Họ bị phản bội, bắt sống giao nộp cho quân Bắc Việt.

Kenneth Conboy, Dale Andradé, United Press

Bạch-Hổ