AIR VIETNAM- LỊCH SỬ HÌNH THÀNH HÃNG HÀNG KHÔNG ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM (Brian Vũ)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

Air Vietnam, tên tiếng Việt là Việt Nam Hàng Không, là hãng Hàng Không Quốc Gia chính thức duy nhất dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa, hoạt động từ năm 1951 đến tháng Tư năm 1975. Hãng khai thác đường bay Sài Gòn đi các tỉnh, sau đó mở rộng ra Bangkok, Singapore, Nhật Bản.
Tại Hà Nội, tối ngày 22/10/1953, tòa nhà 36 ở đại lộ Gia Long sáng rực ánh đèn. Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Nguyễn Văn Tâm chậm rãi bước vào giữa hai hàng quan khách đang hân hoan chào đón.
Đó là buổi tiệc trà mừng kỷ niệm Đệ Nhị chu niên ngày thành lập Công Ty Việt Nam Hàng Không, tức Air Việt Nam. Sự khởi đầu của hãng hàng không của người Việt Nam mà sau đó, qua năm 1954 đã trở thành phương tiện giao thông quan trọng nhất của Miền Nam Việt Nam suốt hơn 20 năm chiến tranh.
Tại buổi tiệc, đại diện Ban Quản Trị – Giám Đốc Việt Nam Hàng Không Lý Công Trinh đã đọc một bài diễn văn kể lại chặng đường đầu tiên kinh doanh vận chuyển hàng không của người Việt Nam, một lãnh vực mà trước đó chỉ có người Pháp và các hãng quốc tế khác thực hiện:
“… Đến ngày 15/10/1953 vừa qua, Việt Nam Hàng Không được đúng hai tuổi. Nhơn dịp Đệ nhị chu niên này, tôi lấy làm hân hạnh và vui mừng được ngỏ lời lần đầu tiên cùng quý vị quan khách và thân chủ chúng tôi ở Bắc Việt. Quý ngài cho phép tôi mượn cơ hội này để trình bày sơ lược tổ chức của Công ty Quốc Gia Việt Nam Hàng Không và những kết quả mà chúng tôi thâu hoạch được trong năm thứ hai này cùng những triển vọng của chúng tôi trên ngưỡng cửa năm thứ ba tới đây.
Trước hết, chúng tôi tưởng cần nhắc lại rằng Việt Nam Hàng Không là một công ty quốc gia đã bắt đầu hoạt động với một số vốn là 18 triệu đồng, trong đó phân nửa thuộc về chánh phủ và phần còn lại do một số công ty Pháp đóng góp vào.
Vì lẽ, công ty hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và quốc gia Việt Nam nắm vai chánh trong sự phân phối cổ phần, Chủ Tịch Ban Quản Trị và Giám Đốc là người Việt Nam”.
Vốn ban đầu 18 triệu đồng, có cổ phần từ Air France
Sự khởi đầu của Việt Nam Hàng Không đã được nhắc lại bằng những nội dung trong bài diễn văn kỷ niệm hai năm thành lập của hãng hàng không Air Vietnam. Ngoài cổ phần quốc gia chiếm lớn nhất với phân nửa trong tổng số vốn 18 triệu đồng (đồng bạc Đông Dương piastre, tương đương với hơn 300 triệu franc thời điểm ấy), còn có hãng Air France góp 33,5%, Công Ty Vận Tải Hàng Không Đông Dương góp 11%, hãng Vận Tải Biển 4,5%, Aigle Azur Indochine 0,5%… Ban đầu, hội sở chính của hãng đặt tại số 5 Quai Le Myre de Vilers (Bến Bạch Đằng), Sài Gòn, sau dời về tòa nhà số 116, đại lộ Nguyễn Huệ.
Đặc biệt, năm 1951, thời điểm mà Air Việt Nam ra đời, còn có một nhóm doanh nhân khác cũng có ý định xin thành lập hãng bay tư nhân. Đó là năm ông Nguyễn Bá Vạng, Nguyễn Châu (hai người này là cựu nhân viên của hãng Avions Taxis d’Indochine), La Đông Toan, Đặng Vi và Pháp kiều Aroulanda.
Năm 1950, mỗi người này góp 10.000 đồng mở Hội Việt Nam Hàng Không Vận Tải Đại Lý Cuộc (ATAVINA) với các lãnh vực kinh doanh chính là bán vé hành khách, hàng hóa và lo việc thuê máy bay khi có nhu cầu.
Cuối cùng, Quốc Gia Việt Nam, mà sau năm 1954 là Việt Nam Cộng Hòa ở phía Nam vĩ tuyến 17, chỉ có một hãng máy bay chính thức của người Việt Nam, đó là Air Việtnam. Tiếc là tham vọng chiếm lĩnh đường bay trên bầu trời của ATAVINA, một hãng bay thuần của Việt Nam, đành không thể thực hiện được.
Ban đầu, sự hợp tác với Air France đem đến nhiều lợi ích cho Việt Nam Hàng không trong việc thuê – mua máy bay, phi công, quản lý, kỹ thuật, khai thác đường bay quốc tế… nhưng về sau cũng có nhiều thiệt thòi cho phía Việt Nam.
Bắt đầu từ khoảng giữa thập niên 1960, Air Việt Nam đã nghiên cứu kế hoạch mua lại cổ phần của Air France. Có hai lý do đưa ra là vì còn vốn Pháp, nên Air Việt Nam không được Hoa Kỳ viện trợ nhiều như các lĩnh vực khác.
Thứ hai là dù góp vốn vào công ty hàng không của Việt Nam, nhưng Air France vẫn khai thác và cạnh tranh các đường bay quốc tế chung. Tháng 7/1966, Trung Tá Phạm Long Sửu, Chủ Tịch – Tổng Giám Đốc Air Việt Nam đã gửi bản trình kế hoạch mua lại cổ phần Pháp lên Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương.
Các giải pháp được đưa ra là thương lượng mua lại cổ phần của Pháp, hoặc quyết định tăng vốn Air Việt Nam từ 48 triệu đồng thời điểm năm 1966 lên 96 triệu đồng. Việc tăng vốn Việt Nam có ưu điểm là giảm thiểu phần vốn của Pháp mà không cần phải sửa đổi bản điều lệ công ty, và cũng không cần phải duyệt lại các thỏa ước hàng không giữa hai chính phủ Pháp – Việt. Ngoài ra, còn có ý kiến cho rằng có thể tuyên bố quốc hữu hóa Air Việt Nam để loại phần vốn của Pháp ra khỏi công ty.
Tuy nhiên, ý kiến này được cho là không nên thực hiện vì các phương diện chính trị và môi trường kinh tế Sài Gòn. Cuối cùng, giải pháp được chấp thuận là vừa tăng vốn Air Việt Nam, vừa dần dần mua lại cổ phần từ phía Pháp mà ở thời điểm năm 1966 Air France vẫn còn đang nắm giữ 25%.
Từ máy bay cánh quạt cỡ nhỏ đến Boeing 727
Ra đời và hoạt động trong thời chiến, Air Vietnam, tức Việt Nam Hàng Không được nhiều hành khách chọn lựa vì đường bộ không an toàn, nhưng hãng bay này cũng gặp rất nhiều khó khăn phải giải quyết.
Vấn đề đầu tiên là mua sắm máy bay. Nếu như thời gian đầu, công ty này chỉ có vài chiếc máy bay cánh quạt loại nhỏ như DC-3, DC-4, Cessna, Bristol, dần dần đã được trang bị thêm các cỡ máy bay hành khách lớn hơn như DC6, Caravelle, B-707, B-727.
Đặc biệt, lịch sử phát triển đội máy bay của Air Vietnam từ 1954 đến 1975 còn rất nhiều tư liệu về việc công ty hàng không của miền Nam đã thực hiện bước ngoặt phát triển từ máy bay cánh quạt lên máy bay phản lực cùng với sự nâng cấp Tân Sơn Nhứt thành phi trường hạng A.
Một số thương vụ tiêu biểu, như ngày 23/6/1962, Chủ Tịch – Tổng Giám Đốc Air Việt Nam Nguyễn Văn Khải đã gửi tờ trình lên Hội Đồng Tối Cao Tiền Tệ & Tín Dụng xin cấp ngoại tệ để mua một chiếc DC6-B chở được 78 hành khách và hai chiếc Cessna 310-G chở 7 hành khách và bán ra nước ngoài một chiếc DC-4.
Riêng đề xuất mua hai chiếc máy bay loại nhỏ hai động cơ Cessna 310-G chở 7 hành khách cũng được Chủ Tịch Air Việt Nam Nguyễn Văn Khải trình bày là từ đầu năm 1962 đã khai thác hai chiếc Cessna 185 (loại một động cơ, chở 5 hành khách) để bay thường xuyên từ Sài Gòn đi An Xuyên, Phong Dinh, Ba Xuyên, Phan Thiết, Khánh Hưng, Cần Thơ, Long Xuyên, Hà Tiên, Cà Mau…
Loại máy bay nhỏ này cũng có thể cho cơ quan thuê bao bay như những Bộ của Chính Phủ, Công Ty Đường Hiệp Hòa, Công Ty Xi Măng Hà Tiên, USOM Mỹ… thuê đi công tác.
Sự hưởng ứng của hành khách rất khả quan với loại máy bay này, đạt 70% và liên tục tăng lên: tháng 1/1962 bay 82 giờ, tháng 2 bay 171 giờ, tháng 3 bay 208 giờ, tháng 4 bay 154 giờ. Trong đó, nhiều tuyến bay như Sài Gòn — Khánh Hưng – Sài Gòn, Sài Gòn – Cần Thơ – Sài Gòn, Sài Gòn – Phan Thiết – Sài Gòn… đều thực hiện được mỗi tuần hai chuyến bay khứ hồi.
Riêng giá thuê bao tối thiểu là 2.500 đồng cho mỗi giờ bay, máy bay đậu chờ được miễn phí trong thời gian bằng thời gian bay. Khi quá giờ miễn phí này, tính phí đậu chờ 1.100 đồng cho mỗi giờ chiếc Cessna đậu lại.
Cùng với tờ trình xin mua máy bay mới này, Air Việt Nam còn đính kèm tình hình kinh doanh cơ bản của công ty. Năm 1961, công ty này thu được số ngoại tệ 3.054.367 USD, chi tổng cộng 1.447.967 USD, dư ra 1.606.400 USD. Năm 1960, Air Việt Nam thu 2.488.162 USD, chi 1.562.813 USD, dư 925.349 USD. Như vậy, tình hình kinh doanh của Việt Nam Hàng không tăng trưởng rất thuận lợi và đủ khả năng mua thêm máy bay nếu được phép của chính phủ.
Sau thương vụ mua bán máy bay năm 1962, hãng hàng không miền Nam Việt Nam còn tiếp tục mua thêm một số máy bay khác cho đến đầu thập niên 1970. Trong đó vẫn còn mua một số máy bay cánh quạt để phục vụ các chuyến bay gần nối liền các tỉnh như DC-3, DC-4, nhưng trọng tâm đã chuyển sang thế hệ máy bay phản lực mới. Tiêu biểu nhất là thương vụ năm 1967 của Air Vietnam mua Boeing 727 của hãng Pan Am.
Đây là thương vụ được sự chú ý đặc biệt của chính phủ VNCH vì cùng lúc mua cả hai chiếc phản lực thương mại khá hiện đại do Mỹ sản xuất trong bối cảnh kinh tế thời chiến miền Nam còn đang khó khăn.
Đặc biệt nhất là Pan Am giúp Air Vietnam thiết lập một chương trình viện trợ (Technical Assistance Program) và thực hiện thủ tục xin Cơ Quan Viện Trợ Mỹ USAID. Đồng thời, Pan Am cũng rút giảm một chuyến bay đông khách Sài Gòn – Singapore để nhường lại cho Air Vietnam khai thác.
Riêng phía Việt Nam còn có thêm một lý do khác để chọn mua máy bay Mỹ, vì từ sau năm 1954 hầu hết phi công, kỹ sư hàng không đều được cử đi tu nghiệp tại Mỹ thay vì ở Pháp như trước đây.
Đến ngày 15/12/1967, kỹ sư Lương Khải Siêu, Chủ Tịch – Tổng Giám Đốc Air Vietnam đã gửi tờ trình lên chính phủ để xin vay số tiền 1,440 tỷ đồng (tương đương với 13,053 triệu USD) để thanh toán cho Pan Am trong tháng 1/1968, thời gian thanh toán lại cho chính phủ trong 10 năm với lãi suất 3% mỗi năm.
Và bắt đầu từ đây, hãng hàng không của người Việt đã sở hữu của riêng mình hai chiếc máy bay phản lực thương mại Boeing 727-100C sản xuất tại Mỹ, ước mơ của những người làm hàng không dân sự miền Nam Việt Nam…
Ngoài các chuyến bay kết nối hầu hết tỉnh, thành từ vĩ tuyến 17 trở vào, Air Vietnam dần dần đã mở rộng được nhiều tuyến bay quốc tế như Bangkok, Vientiane, Phnom Penh, Hong Kong, Singapore, Philippines, Japan.
Khi lưu lượng hành khách tăng lên vào giai đoạn chiến tranh Việt Nam gia tăng cường độ, Air Việt Nam đã bổ sung thêm một số máy bay, ban đầu là Viscounts, DC-3 và DC-4. Sau đó, Air Vietnam lại bổ sung thêm một số máy bay hiện đại hơn, bao gồm cả máy bay Boeing 727, một số trong đó được thuê từ Air France và Pan Am và có một chiếc C-46 được thuê từ China Airlines (Hãng Hàng Không Quốc Gia Đài Loan) và được phi hành đoàn Đài Loan bay. Chiếc máy bay đó có bảng màu khác với phần còn lại của phi đội Air Việt Nam.
Trong một liên doanh bất thường, Air Viet Nam đã hợp tác với Continental Air Services (CASI), một công ty con của Continental Airlines để cung cấp các hoạt động và hỗ trợ vận chuyển hàng không ở Đông Nam Á, vào giữa những năm 1960. Theo thỏa thuận này, CASI sẽ chia sẻ hành khách và các tuyến hàng hóa với Air Việt Nam trên một số tuyến nội địa và quốc tế. Ngoài ra, CASI và Air Việt Nam sẽ chia sẻ nhà chứa máy bay và đường bay.
CASI cũng chọn một phần bảo dưỡng máy bay. Đại tu động cơ hạng nặng đã được thực hiện tại Hồng Kông, bởi China Airlines và một số ở Đài Loan, bởi Air Asia (một công ty con của Air America). CASI đã trả một phần doanh thu cho Air Việt Nam cho các tuyến và đặc quyền. Nhiều máy bay CASI hoạt động từ Sài Gòn mang theo vòng tròn rồng / cờ của Air Việt Nam.
Năm 1974, Air Vietnam có thêm một máy bay B747-200 được thuê từ Air France. (Brian Vu)