Nguyễn Bắc Sơn có cái nhìn trong suốt của một nhiếp ảnh gia trước bức tranh sáng sớm quê hương Phan Thiết của ông. Những hình ảnh đó rất đời thường, đẹp bình dị và lung linh như lụa. Bức tranh ấy là thước phim quay chậm chính hình ảnh của ông từ lúc là một chú bé mê đá dế cho tới khi trở thành một người lính, vô tư bật diêm đốt điếu thuốc trong ngày sau một đêm phục kích chờ giết giặc.
Trong túi quần cậu học trò tiểu học
Có con dế than nồng nàn mùi đất ướt
Gáy lên đi ta
Gáy rung rinh làm rụng những lá me non.
Gáy niềm vui tích tắc trong trái tim chàng
Nhà thơ phản chiến Nguyễn Bắc Sơn
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
Ngông nghênh, ngang tàng, hài hước
Nguyễn Bắc Sơn có cái nhìn trong suốt của một nhiếp ảnh gia trước bức tranh sáng sớm quê hương Phan Thiết của ông. Những hình ảnh đó rất đời thường, đẹp bình dị và lung linh như lụa. Bức tranh ấy là thước phim quay chậm chính hình ảnh của ông từ lúc là một chú bé mê đá dế cho tới khi trở thành một người lính, vô tư bật diêm đốt điếu thuốc trong ngày sau một đêm phục kích chờ giết giặc.
Có con dế than nồng nàn mùi đất ướt
Gáy lên đi ta
Gáy rung rinh làm rụng những lá me non.
Gáy niềm vui tích tắc trong trái tim chàng
Người lính đêm qua đi kích về gác chân lên
Chiếc xe chở đầy những ổ mì vàng nóng hổi
Cười nụ cười đầu tiên trong ngày.
Và bật que diêm đốt thuốc
Những than vãn rất dễ thương
Nguyễn Bắc Sơn có những than vãn rất dễ thương. Không ai trách móc ông tại sao lại chán chê chuyện lính tráng, thay vào đó là ánh mắt thiện cảm dành cho một thiền sư, thiền sư trốn lính:
Ðời bắt một kẻ làm thơ như ta đi làm lính
Bắt lê la mang một chiếc mu
Nên tâm hồn ta là một cánh đồng úng thủy
Và nỗi buồn như nước những đêm mưa
Trong thành phố này ta là người phản chiến
Ngày qua ngày ta chỉ thích đi câu
Râu tóc mọc dài như bầy cỏ loạn
Sống thật âm thầm, ai hiểu ta đâu
Dù đôi khi ta lên núi Tà Dôn uống rượu
Trời đất bao la ta chỉ có một mình
Cầm tay em chầm chậm bước qua sông
Tà áo em buồm trắng đã căng phồng
Những tình ý một đời chưa nói hết
Trong thành phố này từ lâu anh vẫn biết
Ở đâu đây còn chảy một dòng sông
Ở đâu đây còn có mặt trời hồng
Có bến tịnh đậu con thuyền trôi nổi
Thời tuổi nhỏ đời anh buồn quá đỗi
Nhà anh nghèo ngày không đủ cơm ăn
Mẹ hai tay lau nước mắt nhọc nhằn
Cay đắng quá đàn con đâu có biết
Khi lớn khôn nhiều đêm anh hối tiếc
Ðã bao ngày mê mải với văn chương
Nhưng bất tài không viết nổi tình thương
Của người mẹ tóc dài đang nhuốm tuyết
Em cũng biết tình yêu anh bát ngát
Và ngây thơ như đồng mía lau say
Biết ngày xưa anh là ngọn gió tây
Thổi quanh quẩn con đường nhà em mỗi tối
Ta về với nhau vợ chồng không đám cưới
Khi em thành sương phụ áo màu đen
Anh bán đi chồng sách quí nuôi em
Cuộc tình hai ta sao cũng buồn quá đỗi
Khu vườn nhà ta sáng nay có nhiều lá mới
Những lá già rã mục tự hôm qua
Trong lòng anh cũng nở một bông hoa
Ðóa hoa chỉ mỗi mình em ngó thấy
Có núi có sông
Có rừng có biển
Có những sinh vật dễ thương
Có âm thanh và ánh tượng
Có một Việt Nam
Quằn quại trong cơn đau
Có khí thế đang lên
Xây đời hậu chiến
Ðiều ta tặng chính là một bài thơ hay
Kẻ làm thơ chính trực
Là kẻ tặng mọi người
Những gì y có
Sau cùng còn cái mạng không
Y tặng nốt cho người y yêu.
Núi sông ấy là của Việt Nam
Khi tặng núi tặng sông cho mọi người nhà thơ chỉ muốn nhắc nhở người mà ông yêu mến rằng núi sông ấy là của Việt Nam và núi sông ấy đang rướm máu.
Nguyễn Bắc Sơn thành thật nghĩ rằng sự rướm máu ấy do lòng thù hận, phân cách gây ra. Ông đứng ngoài cái vòng ấy và ông phản chiến. Hãy nghe ông nói với các con của mình:
Chuyện một nhà thơ yêu hòa bình nên bị đời cho đi khiêng đạn
Khi chiều xuống, bụi mù trời trên ngọn đồi ba đóng
Ba bắt đầu thương nhớ các con ba
Dù ở tiểu khu này ba là tên tiểu tốt
Nhưng các con nên tự hào ở tấm lòng ba
Ôi câu chuyện người anh hùng lỡ vận
Nên bụi đời cùng những kẻ ngu phu
Ðó là câu chuyện đời ba các con cần phải nhớ
Ôi một quãng đời dài lê bước ưu du
Ba không cực lòng khi bị đời khinh rẻ
Con đường ba đi đã chọn từ lâu
Nhưng khi nhìn những đám hoa râm trên đầu tóc nội
Ba đã khóc thầm khi nghĩ đến mai sau
Rồi mai mốt khi các con đã lớn
Hãy tìm trong trang nhục sử Việt Nam
Ðể thấu hiểu vì sau ba khổ cực
Vì sao nên đất nước lầm than
Nếu Nguyễn hỏi: “Vì sao ngươi đến đây làm giặc, đóng trò tráng sĩ loạn Xuân Thu?” thì Tô thi sĩ có câu trả lời bốp chát: “Tới đây toàn những tay hào sĩ / Sống chết không làm thắt ruột gan / Cũng không ai nhắc gì thân thế / Có vợ con mà như độc thân.” Hai bài thơ, hai tâm trạng nhưng cùng nói về một hình ảnh chiến tranh với bao đau thương của nó:
Âm thầm sương sớm toán quân ma
Qua cầu Sông Lũy nhìn quanh quất
Nước đỏ cầu đen chợt nhớ nhà
Nước reo bèo dạt mặt trời lên
Khói núi lời ca chú dế mèn
Cỏ gió cao che đầu tráng sĩ
Thanh cầu gõ súng nhạc leng keng
Vì sao ta tới đây hò hét
Học trò bẻ bút tập cầm gươm
Tập uống máu người thay nước uống
Múa may theo lịch sử điên cuồng
Vì sao người đến đây làm giặc
Ðóng trò tráng sĩ loạn Xuân Thu
Giận đời ghê những bàn tay bẩn
Ðưa đẩy người trong cát bụi mù
Buổi chiều uống nước dòng Ma Hí
Thằng Xuân bắn chết thằng Mang Khinh
Hỡi ơi sống chết là mưa nắng
Gió tối mưa đêm chớ lạnh mình
Ðốt lửa đồi cao không thấy ấm
Lính Chàm giận ghét Chế Bồng Nga
Chiến chinh chinh chiến bao giờ dứt
Sắt đá ồ sao lại nhớ nhà?
Niềm tin ngây thơ
Nguyễn Bắc Sơn có cha tập kết và cha ông cũng là niềm cảm hứng của nhà thơ trong nhiều câu chữ của mình. Người cha ấy sau cùng cũng gặp được con và buồn thay, Nguyễn Bắc Sơn gặp cha trong tâm tình của một người lận đận, vỡ òa thất vọng. Với một chút hài hước thường lệ ông cười cợt trên niềm tin ngây thơ của cha cũng như của chính ông trong cuộc đời thi sĩ:
Tôi viết bài thơ này để tâm sự cùng một người khuất núi
Thuở sinh tiền
Ông rất thương tôi
Và tôi rất thương ông
Nhưng hai chúng tôi
Đúng là hai người đàn ông có bề ngoài lãnh đạm.
Bố tôi ước mơ làm cho loài người sung sướng
Và thế là ông từ tuổi thanh xuân
Cùng bạn bè đi làm cách mạng
Ông càng làm cách mạng chừng nào
Thì loài người càng thêm sặc máu
Tôi ước mơ cõi đời tốt dẹp
Và thế là tôi làm thơ ca tụng loài người
Tôi càng ca tụng chừng nào
Thì loài người càng xấu xa chừng nấy.
Còn sự ngây thơ ca tụng loài người của thi sĩ chỉ phải trả bằng hai chữ “xấu xa”. Xấu xa với ý nghĩa tự trào, biếm nhẽ lấy mình, khi thực tâm thi sĩ vẫn nghĩ đời rất đẹp.
Nguyễn Bắc Sơn có lẽ là thi sĩ phản chiến hồn nhiên nhất và cũng nhân bản nhất. Ông sợ chiến tranh làm non sông rướm máu. Ông làm thơ phản chiến với một ý thức duy nhất là tránh cưộc chiến càng xa thì đồng bào ông càng ít chết chóc, trong đó có bạn bè đồng ngũ. Ông mơ một ngày ngồi lại với nhau cả người sống lẫn người đã chết, chỉ đơn giản nâng ly cám ơn cuộc đời và gậm nhấm chút hạnh phúc sót lại sau cuộc chiến:
Ai chèo thuyền câu cá giữa dòng sông
Vẫn còn đây bóng dáng chiếc cầu cong
Ðây có sẵn rượu bia đồ nhắm tốt
Các bạn cũ những thằng nào vô phước
Mồ đang xanh vì cuộc chiến hôm qua
Hãy về đây mà say khướt cùng ta
Này bóng mây cao, này vòm lá thấp
Con đường phố người anh em tấp nập
Một người này yêu một chút người kia
Tay ấm trong tay chân ấm viả hè
Trái tim ấm lửa tình người ấm áp
Người sống sót nâng ly mời kẻ khuất
Lại gần đây trên bãi cỏ bờ sông
Soi mặt mình trong dòng nước xanh trong
Ðể nhìn thấy hình bản lai diện mục
Cởi áo trận và hoa mai ném tuốt
Xin giã từ đời vũ khí huy chương
Xin trở về như một kẻ hoàn lương
Xin vứt hết, xin bắt đầu lại hết.
Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn đã vứt hết, đã bắt đầu lại từ hơn 40 năm qua nhưng có lẽ ông vẫn chưa tìm thấy những gì mà trong suốt thời kỳ chiến tranh ông tìm kiếm: cõi bình an đích thực của một người thơ mơ mộng như ông.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/LiteratureAndArts/nguyen-bac-son-an-anti-war-poet-ml-10182014074241.html
Về ghé sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Vung tiền mua vội một ngày vui.”Hoặc:
“Trên trái đất có rừng già núi non cùng biển sông
“Trong Nguyễn Bắc Sơn có kẻ làm thơ
Kẻ làm thơ đôi khi biến thành du đãng
Hoặc nhà tu theo khí hậu từng mùa.”Hoặc nữa:
“Khi tao đi lấy khẩu phần
Mày đi mua rượu đế Nùng cho tao
Chúng mình nhậu để trừ hao
Bảy ngày sắp đến nghêu ngao trong rừng
Mùa này gió núi mưa bưng
Trong lòng thiếu rượu anh hùng nhát gan…”