30 THÁNG 4 (Nguyễn Phúc Sông Hương)

Facebooktwitterredditpinterestlinkedinmail

vietnam-sodliers-2

Tháng Tư 1975, tác giả là một Tiểu Đoàn Trưởng thuộc Sư đoàn 18 Bộ Binh, đơn vị chiến đấu tại vòng đai Sàigòn cho tới phút cuối cùng, trước khi phải tuân lệnh đầu hàng: Nguyên một tiểu đoàn thiện chiến 300 chiến sĩ phải tự nạp vũ khí cho một toán du kích xã tại làng Long Thạnh Mỹ. Bút ký sau đây là kể về những giờ phút cuối cùng của cuộc chiên.

* * *

1. Những ngày giờ sau cùng

Ngày 21 tháng 4, ngày thứ mười hai của trận chiến. Từ khi họp ở Bộ Tư Lệnh trở về, Tiểu Đoàn Trưởng (TĐT) đầy suy nghĩ. Nhiều lần nhìn Nguyễn Mạnh Tông, đại úy Tiểu Đoàn Phó, muốn nói một điều gì đó nhưng rồi lại thôi.

Trong vùng trách nhiệm, các đại đội hành quân lục soát báo cáo tìm thấy rất nhiều xác lính CS và các loại vũ khí trong rừng cao su hướng tây nam thị xã Xuân Lộc. Các toán thám báo không tìm thấy dấu vết mới của quân lính CS. Tiên đoán họ đã lui quân, dấu quân sau nhiều lần tấn công thảm bại, nhất là sau khi cả một Trung đoàn bị tiêu diệt vì quả bom CBU của Không Quân VN. Quân CS bây giờ chỉ còn chứng tỏ sự có mặt của họ bằng các loại pháo tầm xa rót xuống tàn phá thị trấn Xuân Lộc, và vài lá cờ MTGP treo trên những đọt cây thật xa.

Rút bỏ Xuân Lộc

Sáu giờ chiều, TĐT họp các đại đội trưởng cho lệnh chuẩn bị di chuyển sau nửa tiếng. Im lặng vô tuyến kể từ giờ phút này.

Bảy giờ kém mười lăm, Tiểu đoàn vừa đến điểm tập trung tại ngã ba Tân Phong. Tiểu Đoàn Phó và các đại đội trưởng mới biết lệnh bỏ Xuân Lộc. Mọi người ngỡ ngàng. TĐT nói với TĐP:

– Vì bí mật nên mình rất tiếc đã không thể nói cho Tông biết trước tin này được.

Tông chớp chớp đôi mắt sau kính cận nhìn TĐT, giọng buồn nhưng đầy thông cảm, hiểu biết:

– Tôi cũng đã đoán có sự việc gì, nhưng không nghĩ đến việc rút quân. Thật sự, nếu biết trước chắc khó mà không đến từ giã vợ con. Gia đình tôi biết, nhiều gia đình anh em khác biết, đồng bào sẽ biết thì hậu quả thật khó lường được. Gia đình kéo theo, lính không còn lòng dạ nào để chiến đấu, vướng víu nhau rồi bị chết chùm như cuộc rút quân từ vùng 2 chiến thuật vừa qua…

Chúng ta rút quân không phải vì không giữ được phòng tuyến Xuân Lộc. Rút bỏ Xuân Lộc để tái phối trí cho việc phòng thủ bảo vệ Thủ Đô Sài Gòn tốt hơn.

Biết như vậy nhưng lòng người chiến sĩ Sư Đoàn 18, Xuân Lộc là quê hương của đời lính, bỏ đi làm sao lòng ta yên được. Bỏ Xuân Lộc là bỏ lại tất cả những gì thân thương gắn bó. Bỏ Xuân Lộc là bỏ nửa trái tim ở lại!; là bỏ thêm một phần đất của miền Nam cho CS giày xéo.

Đêm đó trên đường hành quân rút về thị xã Bình Giả, Anh em binh sĩ biết được Tư Lệnh mặt trận Thiếu Tướng Lê Minh Đảo cùng di chuyển đường bộ với họ. Đêm tối đen, nhưng anh em nhận ra khi nghe ông hỏi: Tiểu đoàn 3/48 phải không?

Nhiều tiếng thì thầm: ”Tư lệnh đi bộ với mình”. Anh em binh sĩ ngạc nhiên nhưng TĐT thì không. TĐT thì đã quá quen thuộc. Chưa bao giờ Tiểu Đoàn đụng trận mà không có ông bay trực thâng ở trên trời, chia xẻ, khuyến khích, khen ngợi.

Sư đoàn 18 rút khỏi Xuân Lộc, xe tăng và bộ binh càn qua nhiều chốt địch chặn trên liên tỉnh lộ 22 mà đi. Không bị vướng gia đình, lại có thêm sức mạnh tinh thần từ vị Tư Lệnh, đoàn quân rút lui không mấy khó khăn. Về đến Bình Giả vào sáng hôm sau gần như toàn vẹn. Chỉ riêng anh em chiến sĩ TĐ2 Trung đoàn 43 do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế chỉ huy, tăng phái thuộc quyền Lữ Đoàn 1 Dù cùng Lữ Đoàn rút sau, trách nhiệm đoạn hậu đã chạm súng với quân CS và bị thiệt hại khá nặng.

Đi ngang căn cứ Long Giao, hậu cứ của Trung Đoàn 48, TĐT không dám ngước mắt nhìn. Một số vợ con anh em binh sĩ từ trại gia binh đang đứng chờ trước cổng Trung Đoàn. Đoàn quân đi qua, những người chồng người cha đi qua, họ lặng lẽ nhìn theo mà không gọi, không khóc. Phải chăng người vợ người con sợ tiếng gọi của mình sẽ làm động lòng, chồn chân người đi chiến đấu? Thật không thể tưởng được. Những người đàn bà, những con trẻ đang nén cơn đau của lòng, không để bật ra tiếng khóc.

Vài ngày ở Long Bình để bổ sung vũ khí. Ngày 25 tháng tư, Tiểu Đoàn theo Trung đoàn lên lập phòng tuyến tại vùng Trảng Bom, ranh giới Biên Hòa Long Khánh. Cùng với một Chi đoàn M113 thuộc Thiết Đoàn 5 do đại Úy Lê văn Sơn chỉ huy. Tiểu đoàn dàn quân bên này hào sâu cắt ngang Quốc lộ 1 do công binh Quân đoàn thực hiện để ngăn cản tăng T54 địch.

Quân số Tiểu Đoàn sau trận Xuân Lộc còn lại trên 300. Một điều khiến các cấp chỉ huy Tiểu đoàn rất vui là không một người lính nào bỏ đơn vị dù mấy ngày ở Long Bình Biên Hòa anh em có nhiều cơ hội để bỏ về Sài Gòn, tìm về quê nơi có gia đình đang trông đợi. Tất cả anh em không đành lòng bỏ lại bạn bè, cấp chỉ huy mà ở lại đơn vị cùng chấp nhận đồng lao cộng khổ, sống chết có nhau…

Sáng ngày 27 tháng Tư, xe tăng địch xuất hiện phía bên kia hào sâu. Hai chiếc M41 của Thiết Đoàn 5 nguỵ trang chực sẳn bắn đại bác 90 ly trúng một tăng địch. Nhưng, từ hai mặt phải trái cách quốc Lộ khoảng trên 100 mét, cùng một lúc, lính Bộ Binh và xe tăng địch xuất hiện. Thì ra lực lượng địch đã không băng qua hào sâu mà băng rừng, bọc vòng tạo thành thế gọng kềm để kẹp chặt Trung đoàn 48.

Qua vô tuyến, lúc đó mới biết rằng Bộ Chỉ Huy Trung đoàn và Tiểu đoàn 1 đã rút về hướng Nam. Như vậy tại tuyến đầu chỉ còn lại Tiểu đoàn và một Chi đoàn M113. Sau lưng trống hốc, không còn lực để dựa thì còn đánh đấm gì được.nữa. Đành rút quân thôi. Nếu không thì chắc chắn sẽ bị địch bao vây tiêu diệt gọn.

Lệnh cho các đứa em phân tán, rút nhanh ra đường. Chi đoàn M113 của Đại Úy Lê văn Sơn phải tức tốc phân tán vừa chiến đấu vừa tìm đón những người bạn bộ binh trong lúc tăng địch bắn phá dữ dội. Nếu thiếu tinh thần chiến đấu và đồng đội thì anh em thiết giáp đã bỏ bạn bè bộ binh vì thật ra M113 đâu phải là đối thủ của tăng T54 CS. Ngay cả M41 của mình cũng đã quá già nua yếu ớt đối với T54. Nhưng nếu M113 mà bỏ chạy thì đâu còn là chiến sĩ Thiết Giáp Quân lực VNCH. Hơn nữa, Tiểu đoàn 3/48 với Chi đoàn 3 thiết đoàn 5 đã quá quen biết giao tình qua bao cuộc hành quân chung khắp vùng 3 chiến thuật và bên kia biên giới Campuchea trong năm 1970.

Chi đoàn M113 của Đại úy Sơn vốn đã quen địa hình nên sau khi đã gom được bộ binh liền rút rất nhanh. T54 địch đuổi theo, nhưng không làm được gì.

Đây thật sự là một cuộc rút chạy. đáng buồn thật. Đáng buồn vì phải bỏ lại hai chiếc M41 anh hùng ở tuyến đầu, đáng buồn vì đơn vị chưa nổ một phát súng đã tìm đường thoát thân. Nhớ lại đêm nào ở mặt trận Bến Cát Bình Dương năm 1973, lính Tiểu Đoàn đuổi bộ binh địch, bắn cháy tăng địch, và mới hai tuần trước lúc còn ở mặt trận Xuân Lộc, tăng địch là miếng mồi ngon cho M72. Đáng buồn khi nghĩ đến anh em chiến sĩ Địa Phương quân ở căn cứ Bầu Cá. Tội nghiệp cho những chiến sĩ và gia đình vợ con trong căn cứ nhỏ bé này. Tất cả đang chịu bão lửa từ xe tăng T54 của địch.

Ngày 28 tháng Tư, Tiểu đoàn đặt dưới quyền chỉ huy của Trung tá Trần Văn Nô, Thiết Đoàn Trưởng Thiết đoàn 5 làm tuyến án ngữ mặt Bắc căn cứ Long Bình. Ngày hôm đó, chỉ có tăng của hai bên bắn nhau, còn bộ binh ngồi chơi, la hét cổ vỏ mỗi lần tăng địch bị trúng đại bác 90 ly của M41. Lúc này mà có M48 lâm trận thì T54 của địch chắc phải cháy như cây đuốc nhiều hơn nữa.

Từ đồi cao nhìn xuống Quốc lộ, lính bộ binh hết sức khâm phục những người lính Nghĩa quân Hố Nai, chỉ với súng carbin và M16 trong tay cũng bố trí chận đánh bộ binh địch nếu địch dám vượt qua cầu, xâm phạm vào vùng đất, xóm làng thân thương của họ.

Ngày 29 tháng Tư, lúc 5 giờ chiều, Tư Lệnh gọi Trung Tá Trần văn Nô Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 và TĐT 3/48 đến Bộ Tư Lệnh trong căn cứ Long Bình họp khẩn cấp.

Tại phòng Tư Lệnh lúc đó chỉ có ba người: Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo, Trung Tá Trần Văn Nô và Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3/48.

Khi đang họp thì chuông điện thoại reo vang. Tướng Tư Lệnh nhấc ống nghe. Một phút sau ông bỏ máy, chậm rải nói:

– Tổng Thống Dương Văn Minh hỏi chúng ta có giữ được Long Bình Biên Hòa để chờ thương thuyết không?

Đôi mắt sáng của Tư Lệnh liếc nhìn hai thuộc quyền:

– Phải giữ bằng mọi giá! Đây là vòng đai cuối cùng để bảo vệ Sài Gòn.

Quay qua Trung tá Nô, ông hỏi:

– Thiết Đoàn của Trung Tá Nô chưa suy xuyển bao nhiêu phải không? Còn em, Quân số Tiểu Đoàn còn được bao nhiêu ?

– Thưa Thiếu Tướng, còn đủ, chưa mất mát người nào từ khi rời khỏi Xuân Lộc.

Nhìn tấm bản đồ ghi đầy ký hiệu mũi tên màu đỏ chỉ các đại đơn vị địch không ai mà không ưu tư: Quân đoàn 1 từ hướng bắc theo QL 13, Quân đoàn 2 và 4 từ hướng đông bắc đang áp sat Biên Hòa, Quân Đoàn 3 từ Tây Bắc theo QL1 gần Củ Chi, Tất cả tổng cộng khoảng 16 Sư -Đich đang tập trung tìm cách vây hãm Sài Gòn.

Để làm vững lòng hai thuộc cấp đang ưu tư lo lắng, Tư Lệnh nói với nụ cười:

– Tình hình thì như vậy, nhưng địch không dể gì áp sát Sài Gòn. Chúng ta còn đủ lực lượng mạnh, đặc biệt là không quân sẵn sàng yểm trợ.

Khoảng 11 giờ đêm 29 tháng Tư, đài phát thanh Sài Gòn phát lời huấn lệnh của Tướng ba sao Vĩnh Lộc, Quyền Tổng tham Mưu trưởng QLVNCH: ”Các cùi cố gắng giúp Tổng Thống hoàn thành nhiệm vụ lịch sử!”

Đó là lời nhắn gởi cuối cùng trước khi chuồn ra nước ngoài của một chỉ huy cao cấp. Lòng những người lính ngoài mặt trận chùng xuống, cay đắng.

Không cần. Chúng tôi không cần. Ai bỏ nước, bỏ Quân đội thì mặc ai. Chúng ta vẫn còn. Vẫn còn đây những người lính Bộ Binh và Thiết Giáp đầy gian khổ nguy nan này, vẫn còn rất nhiều đơn vị trên các trận tuyến. Sư đoàn 5 ở Lai Khê của Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, Sư đoàn 25 ở Củ Chi của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, và hàng hàng lớp lớp chiến sĩ anh hùng các đại đơn vị Tổng trừ bị Dù, Thuỷ Quân Lục Chiến, Biệt động Quân, Biệt cách dù. Những cánh chim đại bàng của không quân QLVNCH vẫn còn bay yểm trợ, Hải quân vẫn canh giữ sông ngòi, phần biển Tổ Quốc.

Đêm đó, pháo địch từ mọi hướng rót xuống Long Bình không ngừng nghỉ.

Khoảng 3 giờ sáng toàn thể các đơn vị được lệnh rút khỏi Long Bình kéo về bờ Nam sông Đồng Nai làm phòng tuyến.

Lúc qua thành phố Biên Hòa, thật ngạc nhiên khi nhìn thấy rất nhiều xe tăng tối tân M48 bố trí khắp nơi trong thành phố. M48 nằm đây để chờ T54 của địch vào thành phố rồi mới nổ súng hay sao? Biết còn có cơ hội nổ súng hay không? Sao Tư Lệnh Quân đoàn Trung tướng Nguyễn văn Toàn không tăng cường M48 cho chiến tuyến Trảng Bom mà giao trách nhiệm nặng nề cho những chiếc 41 có từ đệ nhị thế Chiến? TĐT nuốt nước bọt đắng khô cổ họng, nhưng nước mắt thì như muốn ứa ra đầy uất ức. Người ta quý những chiếc tăng 48 hơn những mạng người là phải! Một chiếc tăng 48 giá mấy triệu Mỹ kim viện trợ, một người lính tử trận được mười hai tháng lương thì đáng bao nhiêu.

Ngày 30 tháng Tư

Trời vừa hừng sáng, đơn vị xuống xe trước khu Nghĩa Trang Biên Hòa. Chưa kịp rải quân làm phòng tuyến thì thấy quân CS với xe tăng treo cờ MTGP dẩn đầu đoàn Molotova theo xa lộ tiến về Sài Gòn. Đoàn xe chạy ngang nhiên như vào đất của mình. Mấy chiếc tăng dẩn đầu, thỉnh thoảng còn nổ súng bắn vu vơ vào hai bên đường, còn bộ binh trên xe Molotova choàng khăn đỏ, vẫn ngồi yên như đang diễu hành. Hỏa lực từ vài chiếc M113 trên đồi Nghĩa trang bắn theo nhưng đoàn xe CS vẫn tiếp tục theo hướng đã định.

Bộ Binh 18 đã tách rời Thiết Giáp tại điểm xuống quân. Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 48 với Trung đoàn trưởng Trung Tá Trần Minh Công và toàn bộ Tiểu đoàn 3 cùng băng đồng tìm cách về Sài Gòn. Trung Đoàn phó là Trung Tá Khôi đi cùng Tiểu đoàn 1 /48 cũng trực chỉ hướng Thủ đô.

Người lính lúc này sốt ruột lắm. Phải di chuyển cho nhanh về tiếp tay với các lực lượng bạn ở Sài Gòn để giữ cho được Thủ đô yêu quý của người miền Nam.

VC từ trong bìa các làng xóm, sau các lùm tre bắn đuổi theo. Cho lệnh không cần bắn trả mà tiến càng nhanh càng tốt.

Nghe những tiếng nổ lớn, thấy những cụm khói đen bốc cao từ lòng Thủ đô Sài Gòn, bước chân người lính như muốn bốc lên khỏi những cánh đồng đất bùn đang làm chậm bước.

Anh em Địa Phương Quân trên đường cũng bỏ đồn bót, xách súng đạn chạy theo. Tất cả đều cùng chung tâm trạng: về để giữ Sài Gòn Thủ Đô.

Nhưng!!! lúc đó khoảng mười một giờ trưa, khoảng thời gian khủng khiếp, đáng nguyền rủa. Bàng hoàng, sửng sốt, tuyệt vọng bỗng ào đến giữ chặt cứng những bước chân, làm mắt hoa lên và tim như nghẹt thở khi tiếng nói của một người xa lạ vang lên từ chiếc radio nhỏ mang theo bên mình.

Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, ông là ai?. Chắc ông không phải là Nguyễn Hữu Hạnh, con cọp Ba Đầu Rằn nổi tiếng, từng khiến CS kinh sợ ở Biệt Khu 41 Phước Bình Thành? Nguyễn Hữu Hạnh này là NHH xa lạ vừa được Tổng Thống hai ngày phong chức Tham Mưu trưởng QLVNCH. Chúng tôi nghi ngờ ông không phải là một vị Tướng trong Quân Lực. Ông là một người CS nằm vùng. Ông không phải là một sĩ quan được đào tạo trong chế độ tự do dân chủ. Ông không có được cái vinh dự của một chiến sĩ trong Quân Lực VNCH chiến đấu vì Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm.

Chúng tôi, những con xe đã ủi hết cuộc đời, những con tốt đã liều lĩnh qua sông, những con mã chạy không kịp thở, những con pháo tự nổ tung xác hiến dâng cho Tổ Quốc để bây giờ phải lắng nghe, tuân thủ cái lệnh buông súng đầu hàng nhục nhã. Quý vị không thấy, hoặc thấy nhưng đã quên những chiến hữu thuộc quyền đã gục ngã cho lý tưởng mà quý vị hô hào: Bảo vệ lý tưởng Tự Do của dân tộc. Những anh em bạn bè đó trong giờ phút này, đang sống lại, khóc lóc và nguyền rủa những kẻ ươn hèn phản bội.

Đầu hàng! Thật quá dễ. Dễ, nhưng người lính ngoài mặt trận không thể làm điều đó được. Danh Dự Tổ Quốc Trách Nhiệm vẫn còn nặng trên vai. Chao ơi, thật cao quý!

Không bao giờ, chẳng bao giờ QLVN, đơn vị nhỏ bé chúng tôi phải tan rã và đầu hàng nếu ngày giờ này không có cái lệnh của quý vị. Thực tế tại chiến trường trong bao năm tháng qua cho chúng tôi niềm tin chúng ta mạnh hơn quân CS về mọi mặt ngoại trừ mặt tuyên truyền láo khoét, xúi giục, ép buộc thuộc cấp lăn vào chổ chết phi lý cho mộng xâm lược bạo tàn. Miền Nam không bao giờ muốn chiến tranh. Chiến tranh đến từ miền Bắc nghèo đói với chiêu bài giải phóng dân tộc nhưng thực chất là làm tay sai cho đế quốc CS.

“Người anh em”. Tổng Thống Dương Văn Minh đã dùng hai tiếng anh em để mong hòa giải. Chúng ta gọi “người bên kia” là người anh em, nhưng họ có nghĩ rằng chúng ta là huynh đệ với họ không? Họ có chịu hòa giải hay cứ giẩm đạp dày xéo lên thân xác miền Nam bằng xích sắt xe tăng, đại pháo?

****

vietnam-soldiers

2. Sau lệnh đầu hàng

Chao ơi, đối với người lính chiến đấu, hai chữ “đầu hàng” không bao giờ có bởi đây là nỗi nhục nhả lớn nhất của người cầm súng bảo vệ Tổ Quốc. Biết chắc chắn rằng khi buông súng là tự trói mình, không còn nhân phẩm nhưng chúng ta phải tuân lệnh. Đành làm kẻ bại trận chấp nhận nhục nhả, thương đau.

”Người anh em”, kẻ chiến thắng hãy đến đây nhận vũ khí đầu hàng…

Anh em đồng đội ơi, cho đến giờ phút này, tuy lòng đau đớn, nhưng chúng ta thật bình thản, không hề mảy may sợ hãi bởi vì chúng ta là kẻ chiến đấu để giữ giang sơn bờ cõi trong tinh thần dân tộc, không thẹn với lương tâm bởi tinh thần mã thượng và nhân đạo; luôn luôn nghĩ rằng mình và họ đều là Việt Nam. Chúng ta cầm súng để tự vệ, không mảy may thù hận. Đến hôm nay, xem như chúng ta đã không hoàn thành trách nhiệm của mình.

Lúc này là 11 giờ 30. Hơn ba trăm tay súng, bỗng chốc tự mình trở thành những người tù. Nếu không có những mẹ già, những chị, những em, đồng bào trong xã Long Thạnh Mỹ, Thủ Đức đứng hai bên đường vổ tay mừng đón “các anh chiến sĩ quân lực VNCH” của họ thì đoàn người mộng du này vẫn cứ bước đi trong sững sờ, ngơ ngác.

Những người thất trận cố nở nụ cười. Mẹ, chị, em, nhiều người đang lau nước mắt. Dân làng Long Thạnh Mỹ quận Thủ Đức đang đón mừng những chiến sĩ của họ, của toàn thể miền Nam VN. Mọi người mừng mà khóc.

Phải chăng khi đã thật sự thấy tận mắt những gương mặt hốc hác, những nụ cười không lành lặn, trọn vẹn, những áo bạc màu rách vai, những đôi dày vẹt đế đầy bùn đất, đồng bào mới hiểu được rằng bao năm tháng qua, có quá nhiều sự hy sinh chịu đựng tận cùng nơi người lính miền Nam của họ. Mừng các con còn sống. Mừng các anh yên lành.

Bao nhiêu lần bị thương nhưng chưa có vết thương nào sâu hơn, chảy máu nhiều hơn lần này phải không các anh em. Không phải vì vết thương quá lớn, quá sâu mà vết thương từ trái tim đau khi thấy mẹ, thấy chi., thấy anh, thấy em đang mừng đón.

Chúng ta thật có tội với đồng bào. Thật vô cùng hổ thẹn đã buông súng!.

*

Sân chùa xã Long Thạnh Mỹ đầy lính và dân. Người Xã Đội Trưởng du kích tay cầm súng, lên tiếng hỏi:

– Ai là cấp chỉ huy ở đây?

Mọi người chờ đợi. Tiểu Đoàn Trưởng bước ra, trả lời:

– Tôi!

– Anh cho tập họp tất cả binh lính.

Xã đội trưởng cố cao giọng nói như để trấn áp sự hồi hộp và mất bình tĩnh của mình trước ba trăm con người phong trần, rắn rỏi đang nhìn hắn.

TĐT tập họp rồi cho lệnh anh em binh sĩ ngồi xuống cơi giày vớ. Thật là thoải mái! Phải không bạn, chúng mình mang những đôi vớ này đã mấy ngày từ hôm rút khỏi Trãng Bom mà không có thì giờ để thay chiếc khác.

Đồng bào cười vui khi thấy toàn những chiếc vớ rách gót, nặng mùi bùn đất. Nhiều bà con chạy vội về nhà đem dép ra cho. Lính và dân trao nhau giày, dép như trao tặng vật với những nụ cười thân mật. Cám ơn em đã cho anh đôi dép, đôi dép khiến đôi bàn chân anh nhẹ nhàng. Cám ơn anh đã cho em đôi giày lính, rất có ích cho em sau này.

Đồng bào vui mừng khi nhận những đôi giày lính mòn đế khiến người lính ngạc nhiên, nhưng rồi chợt hiểu. Phải, chính từ giờ phút này đây, cuộc đổi đời dưới hình thức con người XHCN quần rách, áo vá, giày xơ đang đón chờ.

Khoảng hai giờ chiều, đồng bào đem thức ăn đến sân chùa Long Thạnh Mỹ mời những người chiến bại của họ với lời lẻ thân thương chân tình khiến người lính nghẹn ngào. Các con ăn cơm cho đở đói!. Các anh ăn cho thật no nghe! Đồng bào thương các anh lắm!

Đã lâu lắm rồi, đây là bữa cơm thịnh soạn nhất mà người lính được ăn. Lính ăn. Đồng bào vây quanh nhìn, cười mãn nguyện.

– Trưa nay ăn thịt kho, chiều nay ăn cá lóc kho nghe các con!

– Ra giếng chùa tắm mát rồi đi nghĩ cho khoẻ nghe các con! Vị Sư già trụ trì chùa nhắc nhở. Tội nghiệp người không quen mùi thức ăn sinh vật, nhưng cũng đi từ nhóm này đến nhóm khác, ân cần thăm hỏi như là một người cha chăm sóc cho đàn con đi xa mới về.

Hầu hết anh em binh sĩ đều ăn uống tự nhiên, rất ngon lành. Những sĩ quan chỉ huy, có người không nuốt nổi vì nước mắt lưng tròng. Khóc vì sung sướng. Trong suốt cuộc đời chinh chiến, đây là bữa cơm ngon nhất, xứng đáng nhất, trọn vẹn tình nghĩa quân dân nhất. Ăn chén cơm ngon mà ứa nước mắt, cảm thấy hổ thẹn quá chừng. Chao ơi, chúng ta đã không làm tròn trách nhiệm bảo vệ tự do hạnh phúc đồng bào miền Nam.

Buổi chiều sân chùa vắng lặng vì anh em binh sĩ vào chơi trong làng. Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng và vài sĩ quan ở lại nghe vị sư già nói chuyện.

Thầy từng có chức vụ trong uỷ ban kháng chiến Liên khu 5 ở miền Trung, nhưng rồi bỏ trốn vào Nam lập chùa khi nhận rõ bản chất của người CS. Thầy nói:

– Quân Đội miền Nam có lý tưởng nhưng không tinh nhuần lý tưởng, lại thiếu khôn ngoan xảo quyệt, nhân nghĩa giả như CS.

Nói về tương lai của miền Nam thì thầy lắc đầu:

– Thầy e rằng rồi đây ngay những chiếc áo tu nâu sồng nghèo khó cũng khó được mặc.

Dôi mắt thầy thật buồn nhìn về xa xôi:

– Từ khi cuộc chiến bùng nổ lớn, mất miền Trung, đồng bào hàng hàng lớp lớp chết vì chạy giặc, kinh kệ không vào trong đầu óc thầy nữa.

Giọng xúc động của ai đó:

– Chúng con hiểu tâm lành của thầy đã không an vì đôi mắt thầy luôn hướng ra ngoài cửa Phật, thương chúng sanh. Chúng con hôm nay có được giây phút an lạc hiếm hoi trong cuộc đời nhờ cửa chùa rộng mở, chỉ sợ rồi đây khi bước ra khỏi cửa chùa…

Sư chắp tay hướng lên bàn thờ Phật:

– A Di Đà Phật, các con lo âu là đúng, nhưng đừng nên quá phiền não mà phải can đảm chấp nhận tất cả những điều sẽ xảy đến. Mong rằng họ sẽ khôn ngoan giải quyết mọi điều trong tình nghĩa huynh đệ, đồng bào ruột thịt thì mới mong oán oán không chất chồng.

Giọng thầy trầm xuống:

– Một điều mà các con phải luôn lấy làm hãnh diện là hình ảnh các con luôn ở trong tâm đồng bào..

Khi nghe thầy hỏi thăm gia cảnh mình, mọi người cảm thấy xót xa trong lòng. Gia đình, cha mẹ, vợ con, thật sự trong mấy ngày qua, từ khi trận chiến Xuân Lộc bùng nỗ, không ai nghĩ đến, nhớ đến. Bao ngày qua, người lính chỉ biết chiến đấu, lo an nguy của đơn vị, chăm sóc cho nhau mà thôi.

Không biết mẹ còn ở Huế hay thất lạc phương nào? Không biết đứa con gái ba tuổi bị thương lúc chạy giặc ở Xuân Lộc được đưa về Sài Gòn bây giờ ra sao, có bị cưa mất bàn tay trái không?.

Mắt người nào cũng đỏ như sắp khóc. Đôi mắt thầy cũng vậy. Vì thương nhớ quê nhà, lo âu cho đạo pháp hay biết trước số phận sắp tới của những con người còn trẻ đang quây quần trước mặt mà thầy khóc!

– Đêm nay thầy không thỉnh kinh, các con vào chánh điện mà nghỉ. Thầy nói, rồi đứng dậy. Anh em đứng dậy chắp tay cúi chào.

Thầy bước đi, dáng gầy xiêu xiêu. Màu nắng chiều cuối tháng Tư nhạt nhòa trên vai áo nâu sồng, loan lổ trên những bậc thềm chùa như những mảnh vá trong tâm hồn những người lính thất trận.

Buổi tối anh em binh sĩ về sân chùa đầy đủ. Dưới ánh trăng mờ mọi người nằm la liệt, có người ngủ say bất động như xác chết. Một vài tiếng ho, ú ớ từ đâu đó vang lên.

Không ngủ được, Nguyễn Mạnh Tông ngồi dậy nói:

– Anh em mình đi một vòng trong sân thử xem anh ba. Khi TĐT và TĐP đứng dậy thì Trần Văn Minh, đại đội trưởng và Ngô văn Đức, Sì Quan hành quân cũng đứng dậy theo.

– Em đi theo anh ba và anh tư. Minh nói.

– Có đếm thử xem anh em còn đủ không? Tông hỏi.

– Chắc không ai bỏ đi đâu.

TĐT nghĩ thầm: Bỏ đi là quyền của anh em vì đơn vị đã tan hàng rồi, nhưng chắc không ai đành lòng vì tình huynh đệ và tính kỷ luật vốn có nơi người lính VNCH, đặc biệt trong hoàn cảnh hiện tại ai cũng muốn gần nhau trong những giờ phút cuối của đời lính.

Mọi người ngước mắt nhìn bầu trời phương xa đang treo lơ lửng một vài trái sáng. Chắc chắn đâu đó, quanh Sài Gòn và ngay trong lòng Sài Gòn còn có những người vẫn tiếp tục chiến đấu. Còn vùng 4 chiến thuật nữa. CS khó chiếm được nếu các danh tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng không tuân lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh. Vùng bốn dân đông, kinh tế phồn thịnh sẽ là nơi quy tụ anh hùng, duy trì chế độ tự do dân chủ thật sự.

Khi ba người trở lại chỗ cũ thì thấy mấy anh em thuộc Trung đội quân báo của thượng sĩ Bé đang ngồi nhìn dáo dác chung quanh. Bé nói:

– Em giật mình thức dậy không thấy Thiếu Tá và hai Đại Úy nên gọi anh em dậy đi tìm.

TĐT cám ơn rồi bảo mọi người đi ngủ. Tình cảm mọi người vẫn còn gắn bó quá, anh em không có gì thay đổi dù TĐT bây giờ không còn là TĐT, sĩ quan không còn là sĩ quan…

Đặt lưng nằm xuống, nhưng ba người vẫn không ngủ được. Giờ phút này, thật sự chỉ có giờ phút này, mới nghĩ đến gia đình vợ con. Chao ơi, có khi nào miền Nam sẽ toàn góa phụ và con côi không?

Sáng 1 tháng 5, nắng lên ngoài sân chùa. Những người lính đang ngồi bên nhau cười đùa, tưởng như biến cố xảy ra hôm qua là một ác mộng đã qua.

– Mời Trung Tá, Thiếu Tá uống trà. Nguyễn Toàn, nguyên là người phụ trách cơm nước cho TĐT pha trà và mời.

– Thôi anh Toàn, đừng gọi Trung Tá, Thiếu Tá, Đại Úy gì nữa, mọi người đều như nhau, cùng một hoàn cảnh cả.

– Dạ, nhưng tụi em vẫn xem như không có gì thay đổi.

TĐT quay qua người lính quân báo bên cạnh, hỏi nhỏ:

– Cây súng nhỏ của tôi cậu còn giữ không?

Người lính nỡ nụ cười:

– Em xin lỗi, em cố giữ như lời TT bảo, nhưng mấy anh em khuyên em liệng nó đi, coi chừng TĐT nóng nảy làm bậy khổ cho gia đình. Tụi em thấy mấy người du kích có vẻ nể nang chúng ta, họ không dám làm nhục TĐT và các vị sĩ quan đâu. Loạng quạng tụi em bẻ họng tụi nó hết.

Khoảng trưa, xã đội trưởng xuống gặp TĐT yêu cầu tập trung binh sĩ để nhận giấy chứng nhận cho ra về.

Theo lời TĐT, mọi người kéo nhau xuống tập họp tại sân ủy ban xã. TĐT và các Sĩ Quan nhận giấy rồi phát lại cho anh em binh sĩ.

Đứng trước anh em đang tập họp, Xã đội trưởng VC nghiêm sắc mặt rồi nói:

– Chính phủ CM lâm Thời Miền Nam VN khoan hồng cho tất cả các binh sĩ nguỵ về với gia đình. Yêu cầu khi về địa phương phải đến trình diện chính quyền Cách Mạng.Các sĩ quan cấp úy cũng sẽ được ra về nội trong chiều naỵ. Riêng sĩ quan cấp Tá sẽ được chuyển lên Ủy Ban Quận quyết định. Ai nhận giấy tờ xong bây giờ có thể ra về.

Xa Đội Trưởng dứt lời, đưa mắt nhìn anh em binh sĩ. Anh em vẫn đứng yên, mắt hướng về những người chỉ huy cũ chờ đợi.

TĐT bước đến trước anh em nhưng miệng như không thốt ra được lời nào. Một phút rồi hai phút, bỗng trong hàng quân có tiếng khóc. Các sĩ quan chỉ huy cũ cũng bước ra. Không ai nói được lời nào.

Không, không thể để trái tim mình thất trận trong trận đánh ngắn ngủi vài phút giây này được. TĐT liếc nhìn anh em và nói lớn:

– Anh em! Từ trước đến nay tôi chưa bao giờ thấy anh em yếu đuối, ngay cả khi chứng kiến sự hy sinh của bạn mình, thì bây giờ cũng vậy phải không anh em? Chiến tranh chấm dứt, nhiệm vụ của chúng ta cũng đã hết. Anh em về với gia đình, xây dựng cuộc đời mới, chúng ta phải cười vui mà chia tay nhau chứ.

TĐT nói và mỉm cười, một nụ cười mà những người lính đang đứng nghiêm chỉnh trước mặt chưa bao giờ thấy qua bao tháng năm.

Mọi người mỉm cười theo, rồi cười thành tiếng. Vui hay buồn! Chỉ có người trong cuộc mới biết. Cũng có người đang sụt sịt.

– Bây giờ anh em có thể ra về, nhưng hãy đáp lời tôi một lần sau cùng trước khi chia tay nhau.

TĐT với thế đứng chống nạnh quen thuộc như những lần sinh hoạt cũ, liếc nhanh mọi người, hô lớn:

– Tất cả, ngồi…

– Xuống!

– Đứng!…

– Dậy!

Gần ba trăm người đáp lời TĐT, âm thanh hùng hồn vang động một góc làng Long Thạnh Mỹ, làm rung rinh tâm hồn những cán binh du kích VC và gây xúc động đồng bào đang chứng kiến khiến tất cả đều đồng loạt vỗ taỵ

Khi mọi người bắt tay từ giả nhau, TĐT quay qua hỏi Trung Sĩ Truyền Tin Lê Văn Tạo

– Ngoài anh Tạo biết gia đình Sơn, còn có ai nữa không?

– Chỉ một mình em biết thôi, em đã chuẩn bị tất cả rồi, xác Sơn đã được đưa lên xe lam, chốc nữa em sẽ đưa Sơn về nhà cho gia đình Sơn. Giọng Tạo thật buồn:

– Nó cố giữ cái máy truyền tin nên bị hụt cẳng khi qua sông, em kêu nó buông cái máy ra mà nó không chịu nghe. Đánh nhau không chết bây giờ lại chết, may mà sáng nay xác nổi lên còn không thì…

– Có mấy trăm đây, em thêm mà trả tiền thuê xe lam. TĐT nói.

– Thưa Thiếu Tá, người chủ xe lam không lấy tiền!

Sơn ơi,

Cái chết của em đau lòng mọi người lắm, nhưng em sẽ bất tử trong lòng anh em bởi vì tất cả chúng ta không ai quên được những giờ phút Tiểu đoàn lội qua sông để mong đến với Sài Gòn đang kêu cứu.

*

Gã tù binh đứng như trời trồng giữa buổi trưa ngày cuối tháng Tư nắng gắt. Gã nhắm mắt lại, tai nghe lao xao những lời từ giã. Tay gã muốn cử động khi có bàn tay ai nắm chặt, nhưng bàn tay gã như đã khô và cứng ngắt.

Gã đứng đó, mắt thấy một dòng sông đang chảy xiết với hình ảnh những người lính vội vã lội qua sông. Sơn ơi sao em không chịu buông cái máỵ truyền tin, còn giữ nó làm chi trong giờ phút sau cùng khi không còn gọi được một ai, không còn nghe ai gọi mình!

Hởi con sông đang chảy xiết, chảy mãi trong trái tim đau đớn của ta! Chao ơi, làm sao quên được dòng chảy ào ạt của ngươi đã nhận chìm, cuốn trôi những bàn tay người lính đang nâng chiếc máy truyền tin, những nòng súng lên cao khỏi mặt nước!

Hỡi em, những người lính muốn qua sông về với Sài Gòn mà chưa qua được, anh vẫn thấy đôi mắt em hướng về Thủ đô trước khi khép kín đời đời. Mới đây thôi: Ngày 30 tháng Tư năm 1975.

Nguyễn Phúc Sông Hương